Thursday, January 16, 2020

Truyện ngắn: Thế Nào Rồi Cũng Phai - Lê Nam Phương (thi sĩ lê Văn Trung)


THẾ NÀO RỒI CŨNG PHAI
LÊ NAM PHƯƠNG (thi sĩ LÊ VĂN TRUNG)


Tiếng chuông điện thoại bỗng reo vang phá tan cái im lặng lạnh lẽo của đêm mùa đông mưa rả rích. Người đàn ông trở mình lầm bầm trong miệng: “Không biết giờ này mà ai gọi sớm thế?”  Ngoài trời màn đêm nặng nề trùm lên không gian, gió thổi vù vù đẩy những chiếc lá chưa muốn rời cành tạo ra một thứ âm thanh khắc khoải như tiếng nấc của một người đang khóc.

Tiếng chuông vẫn còn kiên nhẫn reo.  Anh nhấc ống nghe:

-        Xin lỗi, tôi nghe đây.

-        Chào ông.

-        Xin lỗi, nhưng tôi đang…

-        Ồ, ông không cần bận tâm.

-        Nhưng xin lỗi, bà là ai?

-        Ông là nhà văn?  Chắc không cần thiết biết tôi là ai, ông ạ.  Chỉ mong ông nghe.  Bởi vì chỉ có ông tôi mới có thể nói chuyện này.  Nhưng ông là nhà văn?  Vâng, không nghi ngờ gì nữa.  Tôi đã nghe về ông từ lâu.  Và chỉ có ông, nhà văn, mới có thể, vâng chỉ có ông mới có thể…

-        Nhưng thưa cô, anh thay đổi cách xưng hô, cô nói gì tôi không hiểu.  Chuyện gì mới được chứ.  Mà tại sao là tôi. Cho dù tôi là nhà văn đi nữa. Tại sao là tôi.

Giọng người phụ nữ ở đầu dây bên kia vẫn vang lên đều đều như không cần biết sự nôn nóng và thắc mắc của anh.

-        Xin ông bình tĩnh nghe tôi.  Tôi nghĩ anh ta sẽ gặp nguy hiểm ông ạ. Không.  Anh ta đang gặp nguy hiểm.  Xin ông quan tâm cho.

-        Ai? Anh ta là ai?  Mà nguy hiểm gì? Tại sao lại gặp nguy hiểm?

Giọng người phụ nữ trầm lại:

-        Tôi nghĩ anh ta đang gặp nguy hiểm.  Thật tội nghiệp. Có thể anh ấy là một nhà thơ ông ạ. Hay ít ra anh ấy giống một nhà thơ.  Tôi đã nghe anh ấy đọc thơ một mình, trong đêm.

Anh bỗng thấy tò mò và nghĩ có thể có một chuyện gì đó nghiêm trọng.  Anh nói chậm rãi từng tiếng mong người đang đàm thoại nói rõ hơn.

-        Thưa cô.  Tôi đang sẵn sàng nghe cô đây, nhưng mong cô bình tĩnh và cho tôi biết cụ thể hơn.

Tiếng từ đâu dây bên kia bỗng vang lên:

-        A! Anh ấy đã về.  Lạy Chúa! Cuối cùng thì anh ấy đã trở về.  Cảm ơn ông đã nghe tôi, làm phiền ông quá.  Hẹn gặp ông sau. 

Anh nghe rõ tiếng gác máy từ đầu bên kia nhưng anh vẫn còn cầm ống nghe, lòng bỗng dưng buồn vô hạn. Người phụ nữ này là ai?  Ông nhà thơ kia là ai. Tại sao cô ta lại quan tâm lo lắng quá như vậy. Họ có quan hệ gì với nhau. Ông ta đang gặp tai họa gì.  Tại sao người phụ nữ này lại gọi cho anh để nói. Anh là nhà văn chăng. Mà nhà văn thì sao. Sứ mạng của một nhà văn là phải …hay sao.

Có thể anh đã từng là nhà văn, với dăm ba cuốn truyện, viết lách không chuyên lắm trên vài tờ báo trước đây.  Nhưng từ cái ngày ấy…

Trời chưa sáng hẳn.  Anh gác ống nghe bước ra sân.  Sương mù trắng xóa.  Một làn gió lành lạnh nhẹ lay những màng nhện đọng những hạt sương li ti phủ lên thảm cỏ như những chiếc khăn lụa mỏng.  Cái thị trấn nhỏ mới khai sinh chưa đầy vài năm này đang còn ngái ngủ trong giấc mơ mong manh về lớp áo văn minh đô thị với những căn nhà cấp bốn xây vội vàng, cái trồi cái sụt, đủ màu sắc, đủ kiểu cách trang trí, không theo một mô tiếp nào, và dĩ nhiên vẫn còn lầy lội.  Chỉ duy nhất ánh sáng điện và chiếc điện thoại là biểu tượng cụ thể của văn minh.

Từ lâu kể từ cái ngày định mệnh ấy anh đã không nghĩ đến chuyện viết lách, lại càng không liên hệ với bạn bè, mặc dù có vài lần một đôi người khuyên anh thôi hãy vì cơm áo cứ viết lăng nhăng gì đó mà sống.  Anh cám ơn.

Viết lăng nhăng ư?. Hỡi ơi, nhà văn, anh là ai?  Viết lăng nhăng để kiếm cơm chăng?  Còn người đọc của anh là ai?  Họ trông chờ gì ở anh?

Ôi một nhà văn viết lăng nhăng!  Anh mỉm cười chua xót.

Anh quay vào nhà, lòng tự dưng buồn rười rượi.  Vợ anh đã pha cho anh một ly cà phê, nàng nhìn anh, nhỏ nhẹ:

-        Ai gọi cho anh mà sớm thế?

-        Một người phụ nữ.

Nàng mở to mắt nhìn anh.

-        Vâng, một người phụ nữ, em à. Anh linh cảm có chuyện gì đây.  Không ổn.

Rồi anh lẩm bẩm: Hỡi nhà thơ.  Không nên anh ạ. Hãy xem như mình chưa sinh ra trong đời này.  Đừng làm điều gì dại dột.

Vợ anh không hiểu anh nói gì nhưng trong lòng nàng bỗng thấy lo lắng vô cùng.  Nàng hiểu anh hơn ai hết. Những trăn trở của anh.  Những khát vọng của anh.  Những đam mê của anh.  Văn chương là lẽ sống của anh.  Mất nó anh xem như mình đã chết một phần.  Nhưng anh đã cam đành.  Anh sống lặng lẽ bên nàng, anh đứng bên lề cuộc sống nhìn chính mình càng ngày càng tàn rụi.

Anh vừa nhấp cà phê vừa lẩm bẩm trong đầu: Một nhà thơ?  Là ai?  Anh có biết không?  Đang ở đâu?  Anh đang định làm gì hỡi nhà thơ?

Nhưng rủi ro anh có gặp gì không may thì làm sao?  Tại sao người phụ nữ đó lại gọi cho anh để gần như trông chờ sự cứu giúp.  Anh cũng chỉ là kẻ đang qui hàng.  Sứ mạng của một nhà văn, dĩ nhiên là không cứu rỗi được ai, nhưng! Nhưng chẳng lẽ cũng bó tay nhìn, không một mảy may xúc động, không một cử chỉ biểu lộ tấm lòng, ít ra là tấm lòng của một con người. Ôi một nhà văn đã không thể viết lăng nhăng mà cũng không còn nhịp đập khắc khoải của con tim.

Hình như có thời anh cũng làm thơ.  Và anh đã thấy rằng thi ca cũng tồn tại từ khi có con người, dù ở thời kỳ tiến hóa nào của con người, từ những dân tộc văn minh nhất đến những bộ lạc rừng rú nhất.  Nhân loại không có thơ nhân loại đó sẽ bị hủy diệt.  Thơ là con đường đưa nhân loại đến CÁI ĐẸP.

Thế mà bây giờ anh ở đây, bất lực.

-        Không.  Không thể như thế.  Tôi sẽ đi tìm anh, anh bạn nhà thơ ạ.

***

-        Ô, chào anh, nhà văn.

Cuộc điện đàm lại tiếp tục sau đó khoảng hơn một tuần lễ.  Giọng người phụ nữ bây giờ có vẻ an tâm hơn.  Anh nghe giọng chị ấm và tha thiết lạ.  Anh rất muốn gặp chị hay ít ra cũng phải biết chị là ai, ở đâu, quan hệ thế nào với nhà thơ kia.

-        Anh ạ, cách đây mấy hôm tôi cứ nghĩ là anh nhà thơ đó đã bị hại rồi, nhưng may quá, vắng mặt hai hôm thì anh ấy trở về.  Lạy Chúa!

-        Xin lỗi chị, anh lại thay đổi cách xưng hô, chị có thể nói rõ hơn một tí được không? Tôi sẵn lòng nghe chị đây.

Im lặng một lát tiếng người phụ nữ bên đầu kia chậm rãi:

-        Anh ấy là một nhà thơ.  Chắc chắn như thế. Anh ấy đang thuê một căn gác bên cạnh nhà tôi, ít khi thấy anh ấy xuất hiện, hầu như hiếm khi ra ngoài. Chẳng thấy vợ con.  Nhưng anh ấy là nhà thơ.  Chắc chắn thế.  Bởi vì thỉnh thoảng tôi nghe anh ấy đọc thơ một mình.

Yên lặng một lát, hình như để nén sự xúc động, chị tiếp tục với một giọng trầm hơn:

-        Anh ấy đọc thơ, những bài thơ buồn rười rượi, tôi đứng khóc một mình khi nghe anh ấy đọc thơ…

-       

-        Hình như anh ấy không có ai thân thích.  Rất hiếm khi, một vài người, có lẽ là bạn của anh ấy đến.  Nhưng họ đến và đi trong im lặng, hoặc giả là họ có nói chuyện gì với nhau tôi cũng không nghe rõ, tôi cũng không cho phép mình tò mò nghe lén chuyện của họ.

-        Anh ơi.  Lại người phụ nữ ấy phải không?  Vợ anh từ sau bếp bước ra.

-        Xin giới thiệu với chị, vợ tôi, anh nói với người phụ nữ ở đầu dây bên kia.

-        Xin gởi lời chào chị.  Hiếm khi nào tôi nhìn thấy anh ấy cười.  Hình như giờ phút hạnh phúc nhất, hay ít ra cũng là giờ phút anh ấy vui là một đôi lần anh ngồi kể chuyện cho các cháu nhỏ trước hiên nhà trọ.  Tôi ngồi bên này giả vờ cặm cuội đan len nhưng vẫn lén nghe anh kể chuyện.  Giọng anh ấm và tha thiết lạ thường.  Không biết bọn trẻ có hiểu gì về những câu truyện anh kể không nhưng chúng chăm chú và có vẻ mến anh ấy lắm.

-       

-        Cảm động nhất là khi anh ấy kể chuyện Les Misérables của Victor Hugo, anh ấy thường dừng ngang câu chuyện để nói một cách say sưa về những bất công, những mâu thuẩn, những khổ đau của tầng lớp lao động.  Anh ấy kể về Doctor Zhivago, về Lối Thoát Cuối Cùng, về Giờ Thứ Hai Mươi Lăm.  Anh ấy nói về những ông chủ cũ và những ông chủ mới.

Thú thật là đôi khi tôi cũng không hiểu mấy về những điều anh ấy muốn nói. Nhưng tôi luôn thấy bị cuốn vào những câu chuyện anh ấy kể, bọn trẻ thì khỏi nói, chúng há hốc mồm ra mà nghe.

-        Nhưng thưa cô, anh lại thay đổi cách xưng hô, chẳng lẽ cô cũng không biết anh ấy tên gì sao.  Theo cô thì anh ấy đang gặp nguy hiểm?  Và tôi, tôi làm được cái gì?

-        Có thể anh ấy sẽ gặp nguy hiểm Ông ạ, tôi linh cảm thế, hay tại tôi lo xa quá. Tôi không quan tâm anh ấy tên gì, đối với tôi anh ấy là nhà thơ, hay ta gọi tên anh ấy là NHÀ THƠ.

-        Tôi nghĩ ông có biết anh ấy, có thể anh ấy cùng thời với ông.

-        Tiếc là cô không biết tên anh ấy, không thì tôi không thể nhận ra.
Thôi được, tôi sẽ cố hỏi tên anh ấy.  Nhưng mà tại sao anh biết tôi gọi anh mà không gọi ai khác để nói chuyện này không?  Đơn giản anh là một NHÀ VĂN.  Thế thôi. Đối với tôi nhà thơ nhà văn là một.  Các anh chỉ khác nhau là một người thì diễn đạt điều này theo văn xuôi, người kia thì biểu đạt bằng thơ.  Nhịp đập trái tim của các anh giống nhau, khát vọng của các anh giống nhau, và sứ mạng của các anh như nhau. Phải không ông?  Nàng cũng lại thay đổi cách xưng hô.  Hy vọng có ngày ông sẽ gặp anh ấy. Tôi rất mong điều đó.
Tôi nghĩ gọi như thế này không phiền anh chị chứ?

-        Vâng. Vâng.  Không có gì phiền đâu cô ạ. Tôi cũng mong cô gọi cho tôi luôn, nhất là nói thêm nhiều về anh ấy. Anh ấy có gì, xin cô báo cho tôi ngay, có thể tôi chẳng giúp gì được cho anh ấy, song tôi cũng không thể dửng dưng.

-        Cám ơn anh.  Thôi xin tạm biệt anh.  Tôi gởi lời thăm chị.

Anh gác máy. Đứng trầm ngâm một lúc, anh ra trước hiên ngồi xuống bậc thềm, châm thuốc. Mặt trời như một quả cầu lửa đỏ rực đang nhô lên khỏi hàng dương liễu rọi xuống cảnh vật muôn màu máu đỏ tươi. Một vài con chim sâu nhảy ngoài hàng dâm bụt kêu chim chip anh nghe như tiếng than của một người trong cơn mê.

Suốt mấy tuần lễ nay anh không ngủ yên giấc được, những điều người phụ nữ xa lạ đó kể với anh về con người ấy, nhà thơ, anh cố hình dung những khuôn mặt bạn bè xưa cũ, những người đã cùng anh một thời đam mê, với tấm lòng và nhiệt huyết của tuổi trẻ, mơ về một nhân loại hòa bình, mọi người gặp nhau là tay bắt mặt mừng, xem nhau như anh em ruột thịt, đầu phố cuối thôn lúc nào cũng rộn rã tiếng cười.  Suốt cả chiều dài của lịch sử nhân loại là một màu xanh biêng biếc.  Những con đường ngang dọc suốt địa cầu cây xanh rợp bóng, rừng xanh sóng biếc rộn rã tiếng chim ca. Những cánh đồng vàng thơm lúa chín.  Những thung lũng đầy hoa rập rờn ong bướm.  Những cô con gái mười lăm mười sáu, má đỏ hây hây, môi mọng chín thơm mùi hoa cỏ lúc nào cũng hát ca trong thiên đường tình yêu tràn mật ngọt.  Và anh, kẻ được giao phó một sứ mệnh cao cả, hỡi nhà thơ, nhà văn, họa sĩ, nhạc sĩ, hỡi anh, người nghệ sĩ của đất trời sẽ tung hô CÁI ĐẸP.

Ôi nhân loại sẽ không bao giờ còn thấy máu đồng loại đổ xuống trên những khu vườn, trong những khu tập thể, trên những dòng sông.  Không có nước mắt của người mẹ khóc con bỏ xác ngoài biên ải xa xôi, không có vành khăn sô trên đầu thiếu phụ.  Không có trẻ mồ côi, không có cô nhi viện, không có trại tế bần.  Đêm không còn nghe tiếng súng, không còn phấp phỏng lo sợ đạn pháo từ rừng sâu dội về, không còn người Nam kẻ Bắc tay lăm lăm gươm giáo, nhìn nhau mắt đỏ ngầu thù hận.  Sẽ không bao giờ còn mồ chôn sống tập thể.  Không bao giờ còn thấy cảnh xe đò nằm banh xác, xác người cháy đen. Không còn hố hầm chông mìn lựu đạn…Ôi anh mơ về một nhân loại không hề biết hai từ chiến tranh, không hề biết ý niệm thù hận, không có học thuyết, không trắng không đỏ, không giáo chủ này giáo chủ nọ.  Con người chỉ có một chân lý duy nhất để tôn thờ CÁI ĐẸP.

Ảo tưởng chăng?  Không. Đó là con đường nhân loại bắt buộc phải đi, cái đích nhân loại phải tới.  Nhân loại ơi! Hãy nắm tay nhau đi về phía cánh đồng tình yêu ngát hoa nhân ái.

Vợ anh từ trong nhà bước ra, khẽ quàng hai tay lên vai anh, nàng gục đầu vào ngực chồng hôn tha thiết vào chỗ trái tim anh đang đập yếu ớt, ngậm ngùi. Một cơn gió thoảng qua se lạnh.  Anh nhớ đến những năm tháng còn ở nơi một thành phố nhỏ có những dòng sông hiền hòa chảy qua, những chiếc cầu nối đôi bờ nho nhỏ xinh xinh, mỗi chiều mỗi sáng tiếng chuông nhà thờ vang lên lan xa trong cái se lạnh của gió mùa, những người đi lễ thấp thoáng dưới bóng những cây long não chập chờn trong màn sương mỏng như những bóng mây trôi. Lúc ấy anh đã mơ về một thế giới thần tiên cổ tích.

Nhưng rồi, một đêm, có cái gì đó rờn rợn trong hơi gió mùa đông thổi qua lòng thành phố, mang cái âm u, rờn rợn từ rừng xa chảy về luồn vào tận xương tủy anh. Và rồi cái âm thanh hung bạo của đạn pháo dội về từng đêm, từng đêm. Phố không còn ngủ yên. Phố chong mắt từng đêm phập phồng trong âu lo. Rồi mọi người ra đi bỏ phố lại trong tiêu điều. Anh cũng như mọi người, ra đi theo dòng trôi dạt vô bờ.

Anh nhẫm đọc bài thơ: Phương Nam, khúc ca trôi giạt của khóm lục bình, của một người bạn thơ, mà lòng buồn rười rượi.

-        Vào thôi anh, trời lạnh lắm.

Vợ anh âu yếm nắm tay anh, một chiếc lá vô tình rơi xuống vai nàng, hình như màu lá còn xanh lắm.

Và hình như thời gian đang dừng lại ở đấy, lúc hai mươi lăm giờ.

Thế rồi, bẳng đi một thời gian khá dài, tiếng chuông điện thoại cũ lại vang lên trong ngôi nhà đó, lần này không phải vào buổi sáng sớm như mọi khi, tiếng chuông vang lên trong lúc trời vừa tối:

-        A lô!  Chào anh nhà văn.

-        Xin lỗi, tôi không phải là nhà văn, giọng một phụ nữ trả lời.

-        Vậy xin lỗi bà, tôi có gọi nhầm số không ạ?

-        Không.

-        Có phải chị không ạ?  Ông nhà đi vắng hả chị?

-        Tôi cũng không phải là vợ ông nhà văn đó, thưa cô.

-        Vậy chị là…

-        …là chủ mới của căn nhà này.  Cô là gì của ông nhà văn đó, cô?

-        Tôi chỉ là người quen thôi chị ạ.

-        Hèn gì mà cô không hay biết.

-        ???

-        Ông ấy đã mất cách đây mấy tháng rồi.

-        Chết?  Tại sao?

-        Tự tử.

-        Lạy Chúa! Thế vợ của anh ấy đâu?

-        Sau khi lo cho chồng bà ấy bán căn nhà này lại cho chúng tôi, và nghe đâu về dưới quê.

-        Lạy Chúa! Ôi! Xin người cứu con.

Giọng ở đầu dây bên này an ủi:

-        Thế nào rồi cũng phải, thế nào rồi cũng phải, cô ạ.

Hình như ở đầu dây bên kia có một tiếng nấc nghẹn ngào, tiếng nấc chảy suốt đường âm thanh trong không gian vang lên tức tửi qua máy điện thoại.

Lê Nam Phương

Sunday, January 12, 2020

Truyện ngắn: Một Ngày Tôi Đã Gặp - Lê Nam Phương (Lê Văn Trung)

MỘT NGÀY TÔI ĐÃ GẶP

             LÊ NAM PHƯƠNG (LÊ VĂN TRUNG)

Chiếc xe chở khách cổ lổ sỉ chạy bằng than củi nặng nề ì ạch bò một cách khổ sở trên con đường 9 từ Khe Sanh về Đông Hà, con đường đã đi vào lịch sử đau thương của dân tộc, mang trên mình nó những vết hận thù từ hai phía. Hai bên là rừng núi và vực thẳm, bên nào cũng đầy chứng tích của máu xương, của tàn phá, của những đổ nát, của nước mắt và của kinh hoàng. Rừng cây sau hai mươi năm nhuộm trắng thuốc khai quang không còn đủ sức để hồi sinh.  Hình như suối khe cũng khô cạn.  Suốt dọc đường từ Khe Sanh về tới cầu Đầu Mầu tôi cố gắng chú ý lắng nghe thử có thứ âm thanh gì, màu sắc gì chứng tỏ đất trời quê hương đang hồi sinh.  Một tiếng chim kêu, một mầm xanh mới nhú, chẳng hạn. Không.  Không nghe gì. Không thấy gì.


Mặc dù đang đổ dốc xuống cầu, chiếc xe vẫn mệt mỏi lăn từ từ như sợ cái vực thẳm kinh hoàng dưới kia nuốt chửng lấy nó, giống đồng loại của nó đang nằm hoen rỉ ngổn ngang chen giữa những tàn cây khô rụi. 


Thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe nhà binh chạy ngược chiều.  Trong xe lố nhố những người lính mặc sắc phục nhàu cũ, xộc xệch, khuất dưới những tàn lá ngụy trang.  Xe của họ cũng chạy buồn tẻ và mỏi mệt như chiếc xe chở khách này.  Nếu không có âm thanh rền rĩ của động cơ, ta sẽ có cảm tưởng như những bóng xe ma chở đầy oan hồn của bao nhiêu năm chiến tranh giờ trở về cái nơi mình ngã xuống, rồi tìm kiếm để nhìn mặt nhau hỏi rằng, tại sao lúc đó lại nhắm vào nhau mà bắn mà đắm trong mối hận thù không rõ.  Một toán người Thượng áo quần tơi tả, lớn có, nhỏ có, không phân biệt nổi đàn ông và đàn bà, lưng mang gùi, tay chống gậy, chân đất, đầu cúi xuống, bước đi, im lặng.


Xe bỗng dưng xốc mạnh rồi dừng lại.  Bên đường, một phụ nữ ước chừng hơn ba mươi lăm tuổi, vẻ mặt phờ phạc, tóc rối, nước da trắng tái, đôi mắt buồn bã, nơi hai khóe mắt áo não đó còn đọng hai giọt lệ chưa đủ sức chảy xuống, khiến gương mặt chị chìm trong một nỗi khổ đau vô bờ. Đứng bên chị là một cháu bé gái khoảng tám, chín tuổi, đôi mắt sáng, mỗi lần ngước nhìn lên đều toát ra sự hoài nghi và lo sợ.


-        Bà con xích xích vô một tí cho khách lên bà con ơi.
Tiếng bác tài la lên ở đầu xe.  Có vài người chửi thề, vài người khác chép miệng thở dài:

-        Thời buổi thật là …


-        Xe ngựa gì cái thời này mà khiếp! Nóng quá bác tài ơi!
Bác tài mở giọng nhân đạo:

-        Thông cảm tí bà con ơi.  Người ta đàn bà con gái lỡ đường lỡ sá mà.

Người phụ nữ khệ nệ tay xách túi hành lý, tay dắt con, khó khăn lắm mới lên được xe.  Tôi nhìn chị ái ngại:

-        Chị và cháu ngồi vào chỗ tôi đây.

Chị ngước mắt nhìn tôi như thầm cảm ơn nhưng vẫn chưa dám ngồi xuống. Tôi động viên chị:

-        Tôi ngồi lâu rồi cũng mỏi, chị ngồi xuống đi, đừng ngại.
Chị lí nhí trong miệng lời cảm ơn. Tôi nhìn chị, đôi mắt buồn u uất một nỗi đau tưởng không bao giờ vơi được.

-        Chị đưa cháu đi đâu mà đón xe giữa chỗ rừng núi hoang vắng này?

Chị bỗng sụt sùi, chị quay về phía khác, lấy tay áo lau dòng nước mắt vừa trào ra nghẹn ngào.  Cháu bé thấy mẹ khóc cũng rung rung.  Tôi thấy bàng hoàng và chẳng biết làm gì để an ủi chị. Nhưng hình như chị đã trấn tỉnh quay lại, nhưng không nhìn tôi, chị kể:

-        Em đưa cháu ra thăm ba cháu.

Chị lại khóc.

-        …nhưng không gặp anh ấy…Gần hai năm tôi không có điều kiện để ra thăm anh ấy.  Không hiểu vì sao suốt mấy tuần nay cháu cứ đòi đi thăm, tôi càng chần chừ cháu càng la khóc và thúc giục.  Lòng tôi cũng cảm thấy có cái gì bất an.  Tôi mượn tạm của chị bạn ít tiền mua chút quà và cùng cháu ra từ hôm qua, mới hay anh ấy đã chết gần hai năm rồi.  Tôi chưa hề nhận được tin. Hai năm nay tôi vẫn tưởng ảnh còn ở trong trại.

Tôi nhìn vào đôi mắt chị, đôi mắt đã ráo khô, lạnh ngắt.
Lòng tôi cũng lạnh băng. Nỗi đau như đã đông cứng lại. Tôi mong cho nó tan chảy ra.  Tan chảy ra chắc lòng ta dễ chịu hơn.
Chị xuống xe ở Đông Hà. Tôi phải đón xe đi tiếp. Chị nhìn tôi tuy không nói gì nhưng tôi đọc được trong mắt chị sự biết ơn, còn tôi, thật vô tình, không hỏi chị tên gì, cả chồng chị nữa, biết đâu là người quen hay bạn bè cũ không chừng. Tôi đã lên xe khác, xe chạy đã lâu mà lòng tôi vẫn nao nao, và đôi mắt nỗi buồn hun hút đó cứ ám ảnh tôi.



Xe đã thực sự lăn bánh trên đại lộ kinh hoàng, nơi bạn bè tôi, đồng bào tôi đã nằm xuống trong thảm thương. Máu. Xương. Thịt. Răng. Tóc. Khói bụi. Xăng nhớt. Mãnh pháo.  Xác xe tăng.  Tất cả trộn lẫn vào nhau tạo thành một quang cảnh rùng rợn như thế giới của quỉ ma.  Nếu có một nơi gọi là địa ngục thì chắc không có cái địa ngục nào bằng cái địa ngục này.  Ôi một thứ địa ngục do bàn tay của con người trần gian tạo ra. Và cũng vì cái địa ngục do con người tạo ra nên nó càng kinh khủng hơn nữa.


Bây giờ, hơn mười năm rồi, quang cảnh của cái địa ngục đó không còn nữa, nhưng hình ảnh của nười năm về trước vẫn còn ám ảnh mọi người. Và khi đi ngang qua đây, tôi vẫn, hình như còn thấy rõ như in xác của một bé thơ đã chết miệng vẫn còn ngậm bầu vú mẹ mà xác mẹ đã chương sình thẫm đen đầy ruồi bọ.


Xe vẫn ì ạch lăn bánh về hướng thành phố Huế.  Không biết sau gần mười năm Huế đã thoát ra khỏi cơn mơ hãi hùng của cuộc chiến tranh tàn khốc, hay di chứng của mùa hè đỏ lửa, của Mậu Thân vẫn còn mưng mủ linh hồn của Huế.


Xe về đến bến xe Nguyễn Hoàng khoảng hai ba giờ gì đó.  Qua một chặng đường dài trên một chiếc xe cà khố đầy bụi bặm, người tôi mệt rã rời. Tôi đưa tay lần trong túi nhẩm tính có bao nhiêu đồng.  Cuối cùng tôi quyết định đi bộ từ từ về An Cựu để mua vé xe vào Đà Nẵng.  

Vừa đi vừa nhìn cảnh vật chung quanh, tôi không còn nhận ra Huế nữa. Huế của ngày xưa thơ mộng thế nào thì giờ đây trông già cỗi thế đó.  Những người ngược xuôi trên đường phố trông người nào cũng có vẽ hớt hãi lo âu, người thì vai mang ba lô nhà binh, đầu đội những loại nón mũ kỳ lạ, hình như chiếc nón của Huế đã biến đi đâu.  Tôi nhìn qua bên kia sông mong tìm thấy được tà áo dài tha thướt của Đồng Khánh ngày nào.  Nhưng … Ôi Tràng Tiền, Thương Bạc! 

Những bóng người phờ phạc.  Tôi đứng tựa trên thành cầu nhìn mông về phía Vỹ Dạ lòng nao nao nhớ đến “Rặng liễu buồn thiu hoa bắp lay”, nhớ đến H và nhớ vĩa hè Văn Khoa.
Bỗng một giọng phụ nữ nhỏ nhẹ sau lưng tôi:

-        Anh có mua chi không ạ? Thuốc lá, kẹo cao su nghe?

Tôi không quay lại:

-        Chị cho tôi vài điếu thuốc.

-        Lấy cả bao luôn đi.

Tôi vẫn nhìn dòng sông.

-        Không, tôi không đủ tiền.

Chị vòng tay chìa ra trước mặt tôi mấy điếu thuốc:

-        Đây, thuốc của anh đây, cho em năm hào.

Tôi cầm thuốc quay lại định mượn cái hộp quẹt, nhưng tôi bỗng bàng hoàng:

-        Trời ơi! Diễm.

Diễm cũng sững sờ nhìn tôi rồi nhìn xuống cái hộp đựng nào là thuốc là kẹo cao su, mấy lon nước ngọt.

-        Thụy về hồi mô?

Tôi chưa trả lời, nắm tay Diễm kéo đi về phía An Cựu:

-        Ta tìm một cái quán cốc nào rồi nói chuyện.

-        Làm gì có quán cốc như ngày xưa nữa.  Bây giờ đều là cửa hàng quốc doanh cả thôi. Thụy lạc hậu rồi.

Diễm nhìn tôi, đôi mắt ánh lên một nét tinh nghịch nhưng không giấu nỗi chua chát.  Ngày trước tôi và Diễm học cùng trường, nhưng khác lớp. Diễm không đẹp nhưng là mẫu người dễ gây ấn tượng và rất quyến rũ.  Khi ra trường chúng tôi mỗi người một nơi, ít có dịp gặp lại nhau, nhưng những thông tin về nhau thì hình như không đến nỗi.  Ai lấy chồng, ai lấy vợ khi nào, chồng vợ là ai, có phải là những bạn bè cũ không, làm gì ở đâu…Chúng tôi đều biết rất rõ. Nhưng sau 75 phải nói là biệt vô âm tín, chẳng ai còn thì giờ, điều kiện để cố hỏi han nhau. Họa hoằn lắm mới tình cờ gặp được nhau, như tôi và Diễm hôm nay.  

Chúng tôi ngồi tạm xuống bậc cấp bên vệ đường, nhìn qua chợ Đông Ba.

-        Tân đã về chưa? Tôi hỏi Diễm.

-        Về hơn năm nay rồi.  Suýt chết.  Chú yếu lắm.  Nhưng phải đi làm thủy lợi.  Không đi không được. Ai cũng rứa mà. Còn Thụy răng? Về hồi mô? Chừ làm chi?  Ngọc chừ răng?


Ngọc là vợ tôi.  Diễm hỏi một hơi dài.  Tôi chậm rãi châm thuốc, nàng lấy một gói thuốc nguyên nhét vào túi tôi.

-        Thụy cất mà hút.

Tôi lấy gói thuốc để vào trong hộp hàng của Diễm.

-        Cảm ơn, tôi bỏ thuốc lâu rồi.  Khi đứng trên cầu bỗng dưng buồn nên định mua vài điếu thuốc.  Tôi về cũng được vài năm nay.  Bà xã và mấy cháu đã chuyển vào Ninh Thuận.  Diễm sao? Có ổn không? Bán như thế này làm sao đủ sống.  Mấy cháu có đi học không? Bỏ dạy rồi à?

Diễm không trả lời, tay mân mê mấy thỏi kẹo, đôi bàn tay hình như đã không còn trắng và mềm mại như xưa. Chúng tôi đều im lặng. Một vài người đi xe đạp vội vã đạp lên dốc cầu, vài ba người đi bộ chậm rãi mệt mõi bước đi, chẳng ai nhìn về chúng tôi.

-        Diễm đi dạy được nửa năm thì có quyết định cho nghỉ, không nói lý do gì. Tân không có nhà. Một mình Diễm phải bươn chảy, thôi thì làm đủ việc, không kể ngày mưa ngày nắng, rạng sáng ra đi, tối mịt mới về tới nhà.  Đỡ cái là mấy cháu gởi cho bà ngoại.  Có lệnh phải đi vùng kinh tế, nhưng Diễm liều, cứ ở nhà, bây giờ thì yên rồi.

Diễm nhìn tôi cười buồn:

-        Chỉ mong cho mấy cháu khỏe mạnh và không thất học. Từ ngày có Tân về, Diễm cũng đỡ vất vả hơn, nhưng hai đứa chạy cái ăn cho cả nhà cũng ê ẩm lắm.

Diễm lại nhìn tôi.  Trên gương mặt của nàng vẫn còn phảng phất chút hương sắc của một thời con gái tuy đã nhợt nhạt rất nhiều.  Tôi nắm bàn tay Diễm, nói như nói với chính mình:

-        Thế nào cũng cố mà sống và lo cho mấy cháu, đừng nản. Không thể như thế này mãi đâu. Trong hoàn cảnh khó khăn chung như thế này, bạn bè chẳng giúp gì được cho nhau, tôi chỉ mong chúng ta hãy nhìn về quá khứ mà sống, mà bước đi.  Nếu gặp bạn bè cũ tôi gởi lời thăm.  Thế nào chúng ta cũng gặp lại.

Diễm bóp nhẹ tay tôi, mắt rưng rưng:

-        Diễm gởi lời thăm Ngọc.  Bây giờ Thụy vào Đà Nẵng hả?

-        Ừ, vào Đà Nẵng.

-        Có dịp nào ra lại Huế không?

-        Chưa biết.  Chắc khó lắm.

Tôi muốn hôn vào đôi mắt Diễm như một lời từ biệt.  Như đọc được ý nghĩ thầm kín trong tôi, Diễm buột miệng gọi:

-        Thụy!

Tôi nhìn Diễm nhưng Diễm đã quay mặt đi nơi khác.

-        Thôi Thụy vào đi.  Diễm đi bán đây.

Nàng bước đi về hướng cầu Tràng Tiền, dáng nàng nhỏ nhắn dưới bóng nắng về trưa mang theo nỗi buồn của tôi trên từng bước chân rã rời.

Tôi lầm lũi bước về bến xe An Cựu.  Con đường bỗng rộng ra và lạnh lẽo vô cùng.


Buổi chiều Đà Nẵng chuẩn bị lên đèn.  Tôi đi về hướng chợ Cồn.  Vài người đi xe đạp ôm theo mời mọc.  Tôi lắc đầu dù mệt vô cùng.  Đói lã người. Hình ảnh người phụ nữ và em bé trên đường 9 lại hiện về trong tôi.  Hai giọt lệ đọng lại trên đôi mắt buồn hun hút chứa cả nỗi bi thương vô hạn.  Và đôi mắt của cháu bé, sợ sệt, nghi ngờ.
Tôi mua một ổ bánh mì, một bọc trà đá đến ngồi trên bậc thềm trước rạp Trưng Vương.  Đói cồn cào nhưng không nuốt nổi mẫu bánh mì khô cứng.  Tôi uống hết bọc nước, chỉ muốn nằm xuống trên bậc thềm.  Hình như phố xá đã lên đèn.  Những bóng người qua lại chập chờn, những tiếng gọi nhau í ới và cả những tiếng xô đẩy.  Tôi đang nằm trên bậc thềm của nhà hát trong cái thành phố nơi tôi đã sinh ra cách đây gần bốn mươi năm, và cũng gần bốn mươi năm tôi không sống trọn vẹn với quê hương.  Định mệnh khắc nghiệt của lịch sử đã đưa đẩy chúng tôi lưu lạc khắp nơi, để đến khi có thể trở về thì hình như mình chỉ là người xa lạ trên chính ngôi nhà của mình.  Tôi ngậm ngùi nhẫm đọc mấy câu thơ của Bạch Cư Dị:

Sinh trưởng tại Huỳnh Dương,
Thiếu tiểu từ hương khúc,
Thiều thiều tứ thập tải,
Phục đáo Huỳnh Dương túc.


Bài thơ còn dài, tôi chỉ mang máng nhớ mấy câu.  Không biết cái thuở sáng tác bài thơ tác giả phải lưu lạc là do điều kiện gia cảnh phải xa xứ mưu sinh hay cũng như chúng tôi: bom đạn của hận thù từ bốn phía đã nổ tung chúng tôi ra muôn hướng.


Tôi đang mơ mơ màng màng thì một em bé trai trạc tuổi con đầu tôi đến bên cạnh cất tiếng mời:

-        Chú ơi chú, mua giùm cho cháu cái gì đi chú.  Ngày hôm nay bán chẳng được chi cả.

Em chỉ trước mặt tôi cái thùng giấy đựng nào là thuốc lá, kẹo, nước ngọt.  Tôi bỗng nhớ tới Diễm.  Hình như rất nhiều người nhất là phụ nữ và trẻ con, chỉ bán duy nhất những loại này.  Có lẽ đây là loại dễ mua dễ bán, vì ít vốn và cũng ít bị cấm hơn, bởi vì trong thời buổi cái gì cũng quốc doanh, không ai có quyền làm ăn cá thể được.

-        Cho chú một cái kẹo.

Tôi nói với cháu và cũng chỉ mua giúp cho cháu thôi.

-        Cháu có còn đi học không?

-        Dạ cháu học một buổi, buổi chiều cháu đi bán tới tối, có khi tới chín mười giờ khuya mới về.

-        Thế ba mẹ cháu đâu?

Thằng bé trả lời hồn nhiên:

-        Cháu ở với ba.  Mẹ cháu đi lâu rồi. Chừ không biết ở mô nữa.

Tôi tò mò hỏi cho có chuyện để nói, và tôi cũng chưa biết về đâu trong đêm nay.

-        Rứa nhà chú mô?

Thằng bé nhìn tôi từ đầu đến chân, nó đoán ra tôi là kẻ xa lạ vừa mới đặt chân tới đây.

-        Chú ở xa đến phải không?

-        Ừ.

-        Ở mô lận?

-        Xa lắm.

-        Thôi chú không nói cháu cũng biết rồi.  Chú ở trên núi xuống phải không?

Tôi đưa tay vuốt vuốt đầu tóc bờm xờm ngồi bật dậy.  Thằng bé giật mình ngồi lùi ra một tí.

-        Nè, mà ba cháu tên gì vậy?

Thằng bé không trả lời, đứng lên, hai tay bưng thùng hàng.
-        Thôi cháu về đây. Hôm nay ba cháu bịnh.

Đường phố đã thưa người…Ánh đèn điện hiu hắt vàng vọt loang trên mặt lộ, chập chờn theo bóng người di động, mập mờ trên những tàn cây, có tiếng rao hàng của ai đó yếu ớt mỏi mệt như tiếng vọng từ cõi âm ty.

Thằng bé bỗng nhìn tôi ái ngại.

-        Nè chú, tối nay chú ngủ mô?

-        Chú có người quen ở Nại Hiên, chắc chú sẽ về đó.

-        Cháu cũng ở gần đó.

Tôi xoa đầu thằng bé.

-        Vậy là chúng ta cùng đường rồi.

Tôi đứng lên theo sau thằng bé, cái bóng gầy tong của nó đổ xuống mặt đường trông tội nghiệp.  Tôi nói với nó:
-        Đưa chú bưng hộ cái thùng cho.

-        Cháu bưng được.

Thằng bé tự tin.

Tôi bỗng thấy nhớ mấy đứa con vô cùng.  Không biết sau gần mười năm xa cách, bây giờ chúng ra sao, có phải lam lũ như cháu bé này không.  Nhưng mà tôi nghĩ: cũng vậy thôi.  Hoàn cảnh chung mà.

Con đường Ông Ích Khiêm ngày xưa tôi thấy chật hẹp thế mà giờ đây nó như rộng ra mặc dù chẳng thay đổi gì, nó vắng ngắt và lạnh lẽo như những con đường Thành Nội mùa đông. Thằng bé bước đi thoăn thoắt như một chú sóc con, tôi gắng lắm mới theo kịp nó.  

Đến cuối đường nó dừng lại hỏi tôi:

-        Đây là đường Hoàng Diệu, chú nhớ không?

Tôi gật đầu.

-        Hồi nhỏ chú đạp xe trên con đường này hằng ngày.

Thằng bé vừa đi giật lùi vừa trò chuyện với tôi.

-        Rứa chú người ở đây hả?

-        Ừ. Chú sinh ra ở đây, nhưng lớn lên thì ở chỗ khác.  Mười năm rồi chú mới trở lại đây.

-        Rứa chú còn bà con ở đây không?

-        Không.

Nhanh chân theo thằng bé, đến gần chợ Mới rồi.  Cảnh phố xá vẫn có cái gì đó hoang vắng tiêu sơ, tôi phân vân không biết Tạo còn ở đó không.  
Đến đầu một con hẽm, thằng bé đứng lại:

-        Cháu tới nhà rồi. Vào hết con hẽm này thì tới.  Chào chú.

-        Ừ, cháu về.

Bóng thằng bé đã khuất trong hẽm, tôi vẫn còn đứng lưỡng lự chưa biết đi đâu. Cố hình dung ra cảnh cũ.  Tôi cố hình dung ra những hình ảnh của khu phố trong quá khứ, và tôi mường tượng nhà Tạo chắc gần đâu đây.  

Tôi hỏi một bà cụ đang ngồi trước hiên nhà kế con hẽm:

-        Thưa bà, bà có biết nhà của anh Tạo trước kia ở gần đây không?

Bà cụ nheo mắt nhìn tôi:

-        Tạo mô hè. Ở đây có hai ông Tạo lận.  Một ông thì nhà ở kia kìa, chết lâu rồi.  Còn một chú ở xế xế đây thì cái nhà bị lấy rồi.  Chừ nghe nói ở sâu trong hẽm.  Chú vô hết con hẽm hỏi nhà Tạo Liên đâu thì ai cũng biết.

Liên là vợ Tạo. Như vậy thì chắc rồi. Tôi hối hả đi vào trong hẽm.  Con hẽm quanh co lầy lội, tối tăm.  Mới giờ này mà nhà nào cũng đóng cửa im lìm, chỉ còn chút ánh sáng hiu hắt lọt qua khe cửa là tín hiệu của sự sống.

Tôi tới trước một căn nhà nhỏ ọp ẹp, mấy tấm tôn trước hiên rỉ sét che thấp xuống, nếu không chú ý có thể va vào đầu. 

Tôi định cất tiếng gọi cửa để hỏi thì thằng bé khi chiều hiện ra ở hiên cười:

-        Ủa! Chú hả? Chú không tìm ra nhà hả?

-        Ai rứa con?

Có tiếng đàn ông trong nhà hỏi vọng ra.  Tôi nói với thằng bé:

-        Chú muốn tìm nhà của ông Tạo, Tạo Liên ấy.

Thằng bé quay vào thầm thì gì với bố nó rồi chạy ra.

-        Ba nói mời chú vào nhà đã.

Tôi bước vào nhà. Đúng là Tạo rồi.  Tôi nhận ra Tạo ngay mặc dù con người đang nằm đó chỉ là một cơ thể gầy guộc da bọc xương bất động trên tấm ván kê không rộng quá thướt hai.  Tôi bồi hồi gọi:

-        Tạo.

Tạo nghiêng người qua phía tôi giọng thều thào:

-        Ai rứa hè?

-         Thụy đây, nhớ không?

-        Thụy Ngọc phải không?

-        Ừ. Sao mà ra nông nổi này?

-        Tôi bị sốt mãn tính ông à, từ khi còn ở trong … Tưởng bỏ xác trong đó rồi.  Lấy nước bác uống con.
Tạo bảo con, rồi tiếp:
-        Ông về hồi mô?  Ngọc và mấy cháu ổn chứ?

Tôi nhìn quanh căn nhà rộng chừng mười mấy mét vuông, chẳng có đồ đạc gì.  Thằng bé đem tới một cái ghế nhựa đặt bên tôi, không nói gì.

-        Chúng tôi cũng ổn cả.  Ông về mấy năm rồi?

-        Hơn ba năm rồi, yếu quá chẳng làm gì được, ngày nào khỏe thì đi xe đạp thồ, thằng bé học một buổi một buổi đi bán dạo bậy bạ chi đó, nói chung không chết đói.

Tôi nhìn sâu vô trong bếp những mong tìm thấy Liên, dù trước đó thằng bé đã nói về mẹ nó rồi.

-        Vì sao mà Liên bỏ đi?  Ông có biết giờ cô ấy sống ra sao không?

Tạo cười mếu xệch:

-        Vì sao bò đi hả?  Chuyện thường thôi.  Đầy rẩy.  Thời buổi này chuyện đó đầy. Ông có phúc đó.  Ngọc nhan sắc thế kia mà còn trụ vững đến bây giờ.  Ông có phúc đó.

Tạo im lặng giây phút rồi chua chát:

-        Ông biết răng không?  Liên bỏ tôi đi. Không sao.  Tuổi thanh xuân của nàng không thể để uổng phí chờ đợi vô vọng, rồi những ức chế sinh lý, những thèm muốn, những nhu cầu…Không sao.  Cho dù ngụy biện hay phân trần thế nào, việc đó cũng chưa đến nổi oán hận gì.  Nhưng!  Ông biết sao không?  Một người mẹ bỏ con là điều không thể chấp nhận.  Thua cả cầm thú.


Tạo dừng lại để thở.  Tôi chỉ biết im lặng để nghe nỗi đau gặm nhắm trong từng sợi máu.  Ngồi xuống bên Tạo, lòng nhớ về một cô Liên hiền thục, sáng chủ nhật nào cũng thướt tha trong tà áo dài trắng đến nhà thờ, làm con chiên ngoan đạo.  Ở nhà là người vợ nhu mì, thương con chìu chồng.  Tôi không biết con người tự nó thay đổi hay thời gian và cuộc sống làm nó thay đổi.  Nhưng mà gì thì gì, những đổi thay mang lại bao bất hạnh cho con người thì đau thương quá.

Tạo đưa tay về phía tôi:

-        Ông đỡ tôi dậy tí.

Tôi vòng tay qua cổ Tạo đỡ ngồi dậy.

-        Đêm ni ông ở đây với cha con tôi.  Bạn cũ lâu ngày gặp nhau, ăn một bữa cơm, mắm muối thôi, ông đừng từ chối. Con nấu cơm bác Thụy ăn với nghe.  Chạy ra đầu hẽm chỗ bà Tư mua ít khô, nhớ mua xị rượu.  Tạo nói với con, nhưng tôi can:

-        Thôi, cháu nấu cơm đi.  Bác đi mua cho.

Tôi ra đầu hẽm.  Cái quán nghèo nàn chẳng có gì nhiều.  Tôi mua ít đồng rượu và ít khô cá hồ. Cơm nóng bốc hơi, mùi khô cá nướng thơm lựng, cả ngày nhịn đói, bây giờ tôi ăn ngon lành. Bạn bè gặp nhua cũng vui nên Tạo ăn được chén cơm và cũng uống vài cốc nhỏ.  Ngồi bệt trên nền nhà ấm, chúng tôi tiếp tục trò chuyện, nhắc tới mọi người. Bốn mươi năm trên đời, qua bao dâu bể, niềm vui thì mỏng manh mà khổ đau thì triền miên.  Bao nhiêu đổ nát kinh hoàng đã ụp xuống thế hệ chúng tôi.  Trách nhiệm thuộc về ai?  Ai có quyền phán xét những lỗi lầm.  Dầu trách nhiệm thuộc về ai.  Dầu quyền lực thuộc về ai.  Chúng tôi cũng chỉ là vật hy sinh cho tham vọng bi thương của con người.


Thằng bé hình như mệt quá, ngồi ngủ gật bên cạnh bố.  Tôi đốt một điếu thuốc, Tạo không nhìn tôi, nói:

-        Liên bỏ tôi, bỏ con chạy theo một thằng nào ông biết không?  Thằng Huy đó.

-        Huy nào?

-        Thì thằng Huy cận chứ Huy nào.  Sau 75 hắn phất lên như diều.  Bạn bè ai cũng sợ nó.

Tôi nhớ ra rồi. Thằng Huy cận.  Gia đình hắn có công mà.
-        Thôi cái số ông nó vậy.  Biết đâu mai sau ông gặp may thì sao.  Tôi an ủi Tạo.

-        Ối trời!  Còn sống đến cái ngày vận may nó tới không.  Thôi thì còn sống ngày nào hay ngày ấy.  Tôi chỉ lo cho thằng nhóc thôi.  Ông còn ở lại đây bao lâu?

-        Mai tôi đi.  Hy vọng thế nào chúng ta cũng gặp nhau, tất cả.

Tôi vừa dứt câu thì bóng một người phụ nữ xuất hiện ở bậc cửa.  Tạo ngồi quay vào trong nên không thấy.  Thoáng một chút bỡ ngỡ tôi nhận ra ngay mặc dù trông Liên đã khác xưa nhiều lắm.  Tôi kêu lên:

-        Ôi! Liên! Tạo giật mình quay ra.  Liên đứng sững nơi bậc cửa.  Thằng bé giật mình tỉnh dậy.  Chưa nhận ra ai, chỉ riêng tôi.

Sau giây phút lưỡng lự, Liên chạy đến ôm chầm lấy con và tôi thấy nước mắt nàng ràng rụa.  Thằng bé vẫn chưa hết bàng hoàng.  Tạo thì im lặng đông cứng, ngồi như một tảng đá.  Không khí chùng xuống nặng nề.  Tôi loay hoay không biết xoay sở ra sao, hết nhìn Tạo rồi nhìn Liên, nhìn thằng bé.  Liên nước mắt ràn rụa, ôm ghì con vào lòng tức tửi gọi:

-        Con!

Thằng bé như choàng tỉnh lại, vùng đứng lên, hét to:

-        Không!

Rồi vụt chạy ra trước con hẽm, khuất trong bóng tối.  Liên đứng lên định chạy theo con, nhưng Tạo lạnh lùng:

-        Để cho thằng bé yên.

Giọng Tạo khô khốc, đanh cứng như một nhát bổ của cái búa cùn hoen rỉ vào một tảng đá, khiến người nghe thấy ghê ghê, gai ốc từ sau cột sống lan đi nóng hổi.  Liên đứng lại, nhìn tôi:

-        Chào anh Thụy, xin lỗi, em không cố ý.

Nhìn gương mặt Tạo lạnh băng, nhưng tôi cũng phải hỏi vài câu xã giao:

-        Liên đang ở đâu?

-        Em đang ở Hải Phòng, nhiều lần muốn về thăm cháu, thăm ảnh. Liên đưa mắt nhìn Tạo – nhưng vừa sợ, vừa xấu hổ, không dám về anh à.  Em mới vào chuyến tàu tối nay, vội tới đây, không ngờ được gặp lại anh.  Em xin lỗi. Trăm vạn lần tội lỗi em xin gánh chịu.  Em chỉ xin thỉnh thoảng cho em được gặp con em.

-        Ngày nào cô ra?

-        Em cũng chưa định.

Tiếng chuông đồng hồ nhà hàng xóm gõ mười một tiếng, trời đã về khuya, hơi nước sông Hàn theo gió thổi vào lành lạnh.  Tôi nói với Tạo:

-        Tạo ơi, chắc tôi phải ra bến xe ông ạ.

Tạo vẫn lạnh lùng:

-        Ừ, ông đi.

Tôi buồn bã đứng lên, thấy mình thật vô tích sự, trước hoàn cảnh như thế mà chẳng giúp được gì.  Nói gì với Tạo đây?  An ủi chăng?  Thừa.  Chúng tôi sinh cùng thời gian nan vất vả giống nhau, khổ đau tủi nhục giống nhau, đứa nào cùng từng trải bể dâu.  Nói gì cũng thừa. Tôi bắt tay Tạo, nhìn Liên:

-        Những gì xảy ra, hãy xem như một thứ định mệnh, thứ định mệnh khắc nghiệt như định mệnh của lịch sử này thôi.


Tôi bước ra đi trong bóng tối nhập nhòe của thành phố đang trong cơn ngủ chập chờn mộng mị, bỏ lại sau lưng căn nhà của một người bạn, một căn nhà chứ không phải là một gia đình.  Liệu tôi có bỏ lại sau lưng được cuộc dâu biển tang thương mà bạn tôi đang gánh chịu trên đôi vai cằn khô như một cành cây mục?


Tôi vẫn bước đi trong đêm vắng, cố hỏi trong lòng: Mình sẽ về đâu?

Lê Nam Phương (Lê Văn Trung)