BÊN NGOÀI KHUNG CỬA SỔ
LÊ NAM PHƯƠNG
(THI SĨ LÊ VĂN TRUNG)
*https://en.calameo.com/books/002555245e4d67f37f8ca
Diệu tì tay vào khung cửa sổ, mắt u ẩn nhìn hút về phía xa. Cánh rừng mùa này đang trở nên xanh dù sương
mù có làm cho màu xanh nhạt nhòa hơn.
Nàng nghe rõ tiếng gió réo áo não qua các ghềnh đá và lung lay những
cành thông, tạo cho từng mảng sương mù biến đổi không ngừng, lúc thì trông như
những bóng ma trắng chập chờn từng đàn từng lũ đi về một hướng, rồi đột nhiên
quay ngoắc lại tan vào nhau thành một khối lăn sườn đồi. Có một con đường mòn vắt
qua cánh rừng nhưng giờ này nom không rõ.
Chỉ nhận ra con đường qua bóng dáng nhấp nhô của một vài người vội vã đi
về phía rừng xa.
Gần hai năm nay, Diệu có thói quen đứng tựa khung cửa sổ nhìn
mông vào khu rừng, mắt dõi theo những lay động của cành lá, của sương và của những
cánh chim lạc loài. Nàng đứng đó, lặng
chìm vào nỗi nhớ tiếc xót xa và bóng dáng của Hạ lãng đãng mơ hồ. Tuổi thanh xuân trôi qua cay đắng cùng với những
thèm khát tê buốt cháy rưng rưng trong từng tế bào. Nàng cắn chặt môi và nước mắt trào ra cấu buốt
vào thịt da những khát khao cháy bỏng.
Diệu biết mình rất đẹp, và nhìn bề ngoài nàng trẻ hơn độ tuổi
hai lăm. Thân hình cân đối, cặp đùi chắc,
mông nở, eo thắt lại một đường cong gợi cảm làm nhô lên hai bầu vú căng đầy. Hạ đã từng luồn bàn tay thô bạo của mình mơn
man bầu vú nàng. Những lúc đó Diệu thấy phấn khích lạ thường và cơn thèm khát
bung vỡ như nổ tung cơ thể nàng. Nàng kéo Hạ nằm xuống, rên rỉ như một con mèo
và nàng cắn ngập vào vai anh, cố nén dòng nước mắt hoan lạc trào ra. Nhưng mỗi lần như vậy. Hạ đều nâng đầu nàng lên, hôn đắm đuối vào
đôi mắt ươn ướt của nàng, anh vỗ về Diệu:
-
Chúng ta sẽ nén lại em ạ.
Ngày hòa bình, ngày hòa bình anh bình an trở về. Bình an trở về, em biết không? Ta sẽ dìm nhau trong cái địa ngục tình yêu,
cái địa ngục mà nơi đó xác thịt ta sẽ cháy bỏng ra. Anh sẽ bù đắp cho em. Em sẽ bù đắp cho anh. Ngày hòa bình anh sẽ về em ạ.
Hòa bình! Chiến tranh đã
chấm dứt thật rồi sao? Hơn ba năm rồi
đó. Người ta không còn bắn giết nhau nữa
thì người ta bảo đó là hòa bình. Người
ta không còn gây ra chết chóc máu đổ thịt rơi nữa thì người ta bảo đó là hòa
bình. Mà nếu đã hòa bình rồi sao anh
không về với Hạ? Người ta bảo anh mất
tích? Một con người tự dưng biến khỏi mặt
đất này? Thật vô lý! Hay người ngoài
hành tinh đã mang anh đi rồi! Một người
như Hạ, thuộc từng mảnh đất, từng khu rừng, từng con suối trên đất nước này mà
bỗng dưng mất tích, không biết đường quay về?
Hòa bình rồi sao anh không về hỡi Hạ?
Có thể nào có một thứ hòa bình chưa phải là hòa bình? Hòa bình rồi sao
ta vẫn còn xa cách nhau muôn trùng? Hòa
bình rồi sao người với người không đến với nhau thân ái? Hòa bình rồi sao em
thơ vẫn còn lang thang từ hố rác này đến hố rác khác để bới tìm cái ăn? Hòa bình rồi sao đêm ngủ không yên? Tiếng chó sủa, tiếng gió đập cũng giật
mình. Qua đêm thấy ngày mới biết mình
chưa bị đưa đi. Rừng sâu nước độc,
truông vắng đèo cao. Lùa cả người già,
trẻ con, phụ nữ. Hòa bình rồi sao anh vẫn
chưa về với Hạ? Ôi hòa bình rồi sao vẫn
bỏ quê hương. Chết biển. Chết rừng. Hòa
bình rồi sao em không được anh ôm siết dìu em vào cơn mê cuồng thèm khát. Hòa
bình rồi sao em vẫn còn ngồi ngóng đợi anh về, vẫn là người chinh phụ bao nhiêu
năm tì tay vào khung cửa sổ mà chờ, mà mong, mà hy vọng, mà tuyệt vọng, mà đớn
đau! Rồi tự thèm khát thân xác mình như anh thèm khát thân xác em. Rồi nhớ quay quắt cuồng điên những bận anh đã
về, áo quần bẩn thỉu, nồng nặc mùi mồ hôi và mùi thuốc lá, ôm ghì lấy em như một
con thú hoang dã, đôi bàn tay thô bạo của anh luồn lách khắp thịt da em, hai bầu
vú em căng cứng một cơn co giật tê điếng.
Em trườn lên người anh quằn quại trong mê cuồng, phấn khích với nỗi đớn
đau bung vỡ niềm khoái lạc. Em đã giật đứt
tung áo quần. Em trần truồng trinh bạch
trong tay anh. Em chết đuối trong tay
anh. Nhưng tại sao? Tại sao anh dừng lại,
hôn vào đôi mắt đang ứa đôi dòng lệ náo nức đợi chờ nguồn hoan lạc. Anh kéo em dậy, mặc lại áo quần, hôn lên hai
bầu vú đang còn căng cứng của em:
-
Chúng ta sẽ đợi chờ nghe em?
Hòa bình anh sẽ trở về. Hãy giữ lại
phút giây hạnh phúc nhất đời ta chào đón ngày hòa bình. Anh sẽ trở về. Rồi ta sẽ có con, em ạ.
Nhưng rồi anh không về.
Anh không về trong cái ngày người ta nói về hòa bình. Có phải anh là người chinh phu “cổ lai chinh
chiến kỷ nhân hồi”. Có phải em là người
chinh phụ chờ chồng hóa đá? Anh thì biền
biệt. Em thì qua bao năm rồi vẫn chưa
hóa đá. Em còn nguyên đây trong nỗi đớn
đau thân phận, nhưng cơ thể em không tàn mục đi. Càng nhớ về anh nó càng căng đầy rạo rực
trong những cơn mơ tràn ngập ái ân.
Diệu như thiếp đi trong dòng chảy của ý nghĩ, dòng chảy có khi
trong veo có khi ngầu đục, có khi dữ dội điên cuồng có khi âm thầm lạnh giá. Diệu
không nghe rõ tiếng gõ cửa, khi Diệu uể oải quay ra thì cái bóng già nua lọm khọm
của một người đàn ông cũng vừa toan bước đi.
-
Bác ơi bác tìm ai?
Diệu lên tiếng nho nhỏ và bước đến mở cửa. Người đàn ông trạc chừng sáu mươi, tóc bạc trắng,
râu ria bờm xờm, miệng móm, nhìn chung gương mặt phờ phạc và xa xôi. Ông chống một cái gậy tre. Ông đang nhìn vào khu rừng, nói, không quay về
phía Diệu:
-
Tôi chẳng tìm ai. Tôi
đang khát và cần ngồi nghĩ nhờ chốc lát.
Diệu mời ông vào trong nhà, ông từ chối:
-
Tôi ngồi tạm ngoài hiên.
Cô cho xin cốc nước.
Nàng đem nước ra:
-
Bác từ đâu đến vậy?
-
Không từ đâu cả. Tôi lang
thang đã suốt mấy năm nay rồi, không nhớ mình đã khởi đi từ đâu và đã qua những
đâu. Không nhớ hết.
-
Vậy nhà bác?
-
Không nhà.
-
Vợ con bác?
-
Không vợ con.
-
Bác định đi đâu?
-
Không định gì.
-
Bác nói cháu chẳng hiểu gì cả.
-
Vâng.
-
Cháu lấy cái gì bác ăn nghe.
-
Bà ấy chết trên đèo năm 75 cùng với con gái. Tôi tỉnh dậy thấy mình nằm dưới vực.
Người đàn ông có lẽ đã tỉnh táo lại, ông nói tiếp:
-
Tôi đi tìm họ. Không thấy
xác đâu. Từ đó tôi lang thang từ nơi này
qua nơi khác. Tôi đi tìm họ.
Diệu vào sau nhà lấy ít cơm và thức ăn mang lên:
-
Cháu mời bác ăn tạm…
Ông không để ý nói tiếp:
-
Tôi đi tìm. Bao năm nay
tôi đi tìm.
Diệu tò mò lễ độ hỏi:
-
Bác đi tìm?
-
Vâng, tất cả. Kể cả thằng
con trai. Nó đi lính rồi không về. Hòa bình rồi cũng không về. Người ta nói nó mất tích. Lạ thật.
Mất tích là sao?
-
Nhưng không có tâm tích gì của ai sao bác?
-
Không.
-
Vậy mà bác vẫn đi tìm?
Diệu lại hỏi một câu có vẻ ngớ ngẩn, chính nàng, chính nàng, không
phải chính nàng cũng đang trông đợi vô vọng đó sao? Lại một người nữa mất tích. Một là sống trở về hai là chết.
Sao lại mất tích? Mất tích. Thứ ngôn ngữ đánh lừa làm cho ta vừa thấp thỏm
hy vọng vừa đớn đau tuyệt vọng.
-
Tôi ăn nghe cô?
Ông nhìn Diệu e dè hỏi.
-
Mời bác. Nhưng mà bác đã
không gặp anh ấy đã lâu chưa?
-
Trước cái ngày thiên hạ cho là hòa bình mấy tháng. Tôi vẫn tin nó còn sống cô à. Mà nếu nó đã chết rồi thì cũng chỉ chết theo
cái nghĩa đen của nó. Nó phải còn cái phần
tâm linh của nó chứ. Nhưng tôi cũng
không gặp nó ngay trong những giấc mơ của mình.
Chẳng lẽ linh hồn nó cũng mất tích rồi sao?
-
Anh ấy đã có vợ chưa?
-
Chưa.
-
Chắc cũng có người yêu rồi.
-
Chắc.
Người đàn ông đi tìm, ông nghĩ, ít ra là cái hồn của con mình.
Diệu nghe lành lạnh sau sống lưng.
Vừa ăn người đàn ông vừa kể:
-
Tôi bảo nó lấy vợ, nó nói khi nào hòa bình. Rồi người ta nói với
tôi đã hòa bình. Thế mà nó không về lấy
vợ.
Diệu nhớ tới Hạ. Có phải
anh cũng đã nói với em như vậy? Hòa bình
anh trở về. Và nàng nghe cơ thể thổn thức
bởi một cảm giác cũ sống lại. Nhớ đôi
bàn tay thô bạo của Hạ. Và nàng cúi nhìn
xuống ngực mình, đôi bầu vú nàng không mặc áo nịt đang run run lên tê tái.
-
Bây giờ bác vẫn còn đi tìm?
-
Vẫn.
-
Bác có tin sẽ gặp anh ấy không?
-
Có.
Rồi ông cả quyết:
-
Một là xác hai là hồn.
-
Bác có nghĩ rủi ro anh ấy đã mất rồi, linh hồn anh ấy có về với
bác không?
-
Cô tin có linh hồn không?
-
Chúa cũng không biết.
-
Cái hồn của con người mới là cái lớn lao hơn. Thân xác chỉ là tro bụi.
-
Nhưng cháu, cháu muốn có cái phần tro bụi đó hơn.
-
Đúng. Cũng cần, nhưng cô
nghĩ thế nào? Nếu nó còn sống, chắc chắn
nó phải trở về. Hòa bình rồi mà. Nhược bằng
nó đã chết, cái hồn của nó cũng phải trở về chứ? Chẳng lẽ một người mất tích là một người
không còn cả hồn lẫn xác?
-
Bác có thường cầu nguyện để xin còn được gặp anh ấy không?
-
Không. Không ai giúp ta
được. Chúa cũng vậy. Phật cũng vậy.
-
Vậy bác tin vào gì?
-
Không tin vào gì cả. Tôi
chỉ có trái tim. Trái tim tôi thôi
thúc. Khi nào máu trong tim tôi ngừng chảy
tôi sẽ ngưng cuộc kiếm tìm.
-
Bác không tin vào Chúa, vào Phật, vậy bác cho rằng không có
thiên đường địa ngục sao?
-
Thiên đường địa ngục ư?
Đó chỉ là ý niệm. Nhưng cho dù có
thiên đường thì con người cũng không đặt chân tới được. Vì nó chỉ là ý niệm nên khoảng cách giữa
thiên đường và địa ngục không xa. Hay chính xác hơn, nó không có ranh giới. Nhưng như tôi đã nói, con người chưa hề đặt
chân tới thiên đường được, bởi chính nó, cái con người ấy, chính nó đã là địa
ngục rồi.
-
Vậy sao bác tin có linh hồn?
-
Tôi đã nói thế? Thí dụ
tôi nói tôi không tin vào Chúa, vào Phật là hiểu theo cái nghĩa quý Ngài không
giải thoát gì cho ta được. Tôi không tin
tôi cầu xin sẽ được ân chuẩn. Có Chúa
không? Có. Có Phật không? Có.
Nhưng cầu xin quý Ngài giải thoát cho chúng ta khỏi những phiền não thì
không, các Ngài không giải thoát cho ta được.
Cho nên tôi lang thang kiếm tìm, chưa một lần cầu xin ân sũng. Tôi đi tìm theo sự thôi thúc của con tim phiền
muộn, sự cô đơn lạc loài của kiếp người.
Tôi vẫn đi tìm. Linh hồn ở đó. Là trạng thái tâm lý vượt ra khỏi thực tại. Ta chỉ gặp linh hồn trong những giấc mơ của
mình. Nhưng trong những giấc mơ phiền muộn
của tôi, nó vẫn không quay về, họ không quay về.
Diệu trầm ngâm như nói với chính mình:
-
Không biết sau cuộc chiến này còn có bao nhiêu người lang thang tìm
kiếm trong vô vọng nhưng không bao giờ từ bỏ.
-
Bao nhiêu? Ừ, không biết
bao nhiêu.
-
Bác đã gặp ai đi tìm như bác thế này chưa?
-
Chưa. Cũng không biết.
Người đàn ông bưng ly nước uống cạn, đứng lên:
-
Tôi cám ơn cô. Tôi đi đây.
-
Bây giờ bác định đi đâu?
-
Chưa biết.
-
Buổi tối bác thường trọ ở đâu?
-
Một người như tôi có rất nhiều chỗ để qua đêm. Gốc cây bên đường, gầm cầu, hiên chùa, chuồng
gia súc bỏ hoang nào đó…Thôi chào cô.
-
Nếu bác có đi ngang qua đây xin mời bác vào nghĩ.
-
Chưa hẳn. Tôi chưa bao giờ có ý định quay lại lối mình đã đi
qua.
-
Bác đi bình an.
Người đàn ông bước ra đường, đi chậm rãi. Không rõ ông đi về phía trước hay quay lại lối
cũ, chắc ông cũng không nhớ, mà Diệu thì cũng không biết ông đã từ hướng nào đi
tới. Nàng mong cho ông gặp lại người con. Niềm mong ước đó nàng cũng mong cho
chính mình, chút hy vọng leo lắt trong niềm tuyệt vọng bi thương. Nàng quay lại khung cửa sổ, lại tì tay vào
đó, nhìn xa xôi về phía khu rừng. Hình
như bóng người đàn ông thấp thoáng cuối con đường mòn dẫn vào khu rừng. Ông ta đi vào rừng ư? Diệu lo lắng.
Vào rừng một mình không áo ấm, không nước uống, không thức ăn. Nàng biết, băng qua hết cánh rừng này là một
bản làng độ vài chục nóc nhà lụp xụp của những người từ thành phố bị đưa về
đây. Qua hết cái làng nhỏ đó lại một
cánh rừng nữa kéo tận chân dãy Trường Sơn. Nàng vẫn thường thấy những người ở khu
làng kia, thỉnh thoảng, qua lại trên những lối mòn này, họ đến một cái chợ nho
nhỏ để trao đổi những thứ họ kiếm được và lấy lại những thứ cần thiết, thường
là mắm, muối, dầu, đèn…Họ sinh hoạt gần như những người anh em miền Thượng Du,
trông họ cũng lầm lì và im lặng. Diệu
chưa hề thấy bóng dáng một đứa nhỏ nào.
Trong làng không có trẻ con chăng?
Hay người ta không dám sinh đẻ?
Nhưng làm sao người ta tránh được cái chuyện ấy. Đúng là Diệu chưa hề thấy một đứa trẻ
nào. Nếu có thì ít ra chúng cũng đi học
và buộc phải ngang qua đây để đến một cái trường duy nhất ở cuối khu này. Một ngôi trường lợp lá cọ dột nát xiêu vẹo
như sẵn sàng đổ xuống nếu có một cơn gió hơi mạnh thổi qua. Hay chúng phải ở nhà chăn trâu, cuốc đất, lượm
củi, hái rau…Chúng phải phụ giúp cha mẹ.
Chúng không được đi học. Diệu chợt
nhớ tới Lão Du Sĩ, năm 75 lão lùa hết vợ con vào rừng sâu, cách ly hẳn xã hội,
bắt đầu cuộc sống hoang dã sơ khai. Mấy
đứa con lão hoàn toàn không màn tới có một thế giới loài người đang tồn tại bên
ngoài bức tường cây cối dầy đặc của rừng xanh.
Diệu bỗng thấy xốn xang trong lòng. Nếu Hạ không mất tích. Nếu Hạ giữ đúng lời hứa
với nàng, nay Diệu đã có con, đã sống hạnh phúc bên Hạ, cho dù phải sống cơ cực
đi nữa. Diệu sẽ dạy con học, dạy chúng lòng yêu thương, dạy chúng biết trân trọng
cỏ cây hoa lá…Nhưng giờ thì…Hạ đã bay qua một dãy núi nào đó, một khu rừng nào
đó và anh đã không trở về.
***
Anh sẽ về.
Em lo cho anh quá.
Chắc chắn hòa bình.
Em thấy xa vời quá.
Không thể chém giết nhau mãi được.
Em không hiểu.
Máu đã đổ nhiều rồi.
Tâm hồn con người cũng ung vữa rồi.
Phải hy vọng em ạ.
Vâng, đừng tuyệt vọng. Cay đắng quá. Ôm em đi anh. Em thèm anh quá.
Hòa bình anh trở về.
Yêu em đi anh.
Anh sẽ về. Chờ đợi anh.
Rồi anh không về, Hạ, anh không về.
Nàng nhìn xuống ngực mình, hai bầu vú căng lên dưới lớp vải mỏng. Nàng nhắm mắt lại, nhớ từng sợi tóc, ánh mắt
của Hạ, nhớ bàn tay thô bạo của anh bò trườn khắp cơ thể nàng. Bất giác nàng mở cúc áo để lộ bầu ngực đang
rung lên, trắng như sữa và hai núm vú đỏ hồng, nàng thèm ngậm vào đó mà mút như
Hạ đã từng, giống một thằng bé tham ăn, mút hai bầu vú nàng khiến nàng ngây ngất
trong cơn tê dại đớn đau quằn quại niềm khoái cảm đến ứa nước mắt. Nàng đưa tay nâng hai bầu vú của mình lên,
chìm sâu trong nỗi tiếc nhớ thăm thẳm.
***
Đã hơn hai tháng trôi qua kể từ ngày người đàn ông lạ ghé
vào. Ông ra đi, không để lại dấu vết. Nàng chỉ nhớ mang máng người ông gầy guộc,
tóc bạc, râu dài và đôi mắt sâu hun hút bao giờ cũng như nhìn vào cõi hư không
nào. Một con người cô độc trên thế gian
đầy bất trắc này đang đi tìm một bóng hình hư ảo với niềm hy vọng bi đát. Diệu nhớ tới ông và thấy tội nghiệp cho ông
quá. Mối thương cảm này làm nàng thổn thức và khổ sở vô cùng.
***
Anh đã từng yêu ai chưa.
Chưa.
Anh đã ngủ với cô gái nào chưa.
Rồi.
Ai?
Gái điếm.
Ghê.
Không ghê đâu. Giải quyết
bình thường.
Anh không muốn yêu em à.
Muốn.
Vậy hãy yêu em đi.
Hòa bình anh trở về.
Em không chờ được.
Hãy chờ…
***
Diệu nhớ tới người đàn ông.
-
Tôi bảo nó lấy vợ, nó nói chờ hòa bình.
Hòa bình rồi phải không?
Anh không về. Người thanh niên
kia cũng không về. Một người cha già nua
lang thang đi tìm trong vô vọng. Một phụ
nữ ngồi chờ bao nhiêu năm dằng dặc. Cả
hai đều không dám tin mình đã mất hay còn người thân yêu của mình. Khi nào có sự bắt đầu tìm kiếm trong vô vọng,
có sự chờ đợi trong vô vọng là lúc bắt đầu nghe người ta nói đến hòa bình, phải
không? Cả đất nước này, cả loài người
này đang như thế và sẽ còn như thế.
Diệu nhớ tới người đàn ông, một người mang nỗi khắc khoải giống
như nàng. Nhưng ông thì dấn thân đi tìm,
nàng thì ngồi âu sầu buồn bã đợi chờ vô vọng trong nỗi cô đơn triền miên và
trong nỗi thao thức của cơ thể, một nỗi khát khao bi thương làm nàng thấy cả
nguồn sinh lực mình như cơn sóng vỡ trào vào một bờ bãi hoang liêu.
“Hay là mình đi tìm ông già”.
Nàng tự nhủ với mình và hình như có một nguồn thôi thúc nào đó trong
lòng bảo nàng “Hãy lên đường”. Thà làm một
cuộc hành hương vô vọng còn hơn ngồi chờ mõi mệt trăm năm. Hai người sẽ chung một con đường cho dù con
đường phía trước mù mịt. Thôi, hãy cất bước là ra đi. Cả đất nước này, cả loài
người này hình như cũng đang lên đường, tìm kiếm cái đã mất, tìm kiếm điều chưa
có, tìm kiếm cái đã bị tước đoạt, cả hai người – người đàn ông và nàng – đều có
thể, không có một điểm rõ ràng để tới, nhưng cả hai đều ra đi với khát vọng vô
bờ: có thể, người đàn ông chỉ mong, dù trong giấc mơ phiền muộn của mình, cái
bóng cái hồn của người thân yêu. Nhưng với
nàng, nàng muốn tìm cho bằng được cái khối vật chất mang hình hài một con người
và chỉ có con người đó mới bù đắp nỗi khát khao bị nhấn chìm trong nỗi cô đơn
bi thương mà nàng đã chịu đựng.
Thế là Diệu quyết định lên đường. Nàng chuẩn bị một vài thứ lặt vặt và áo quần,
rạng sáng hôm sau, đúng một trăm ngày kể từ ngày người đàn ông lạ ghé qua, túi
xách trên vai nàng lầm lủi đi trong sương mù trên con đường mòn dẫn về phía khu
rừng.
Trời đã chuyển sang những ngày của mùa đông.
Gió se se và bầu trời nhiều mây, sương mù nặng nề bám là đà mặt
đất, trời đất nhuộm một màu trắng nhờ nhợ chậm chạp trôi khiến người đi như bềnh
bồng trong ảo giác chập chờn. Con đường
vắng đến độ không có một sinh vật nào, ngay cả những tiếng kêu rên rỉ của những
con dế nấp dưới các lùm cỏ cũng chìm khuất trong cái yên lặng não nề của đất trời. Diệu đi trong miền im lặng đó, nàng chỉ còn
mơ hồ nghe con tim mình nhịp u buồn theo từng bước đi nhẹ như bước trên
mây. Nàng phải đi như thế ít nhất nửa
ngày mới đến bìa rừng. Nghĩ ngơi dăm
phút rồi phải vội vã băng qua khu rừng trên một lối mòn quanh co chìm khuất dưới
tàn lá cây rừng, nếu không chú ý có thể lạc vào những lối mòn chằng chịt mà những
người đi lụm củi tạo ra dọc ngang.
Hình như đã từng nằm mơ thấy mình thường lang thang trên những
con đường như thế này. Nàng đi mãi đi
mãi, những bước chân vô định với một tấm lòng nặng trĩu niềm nhớ nhung cùng nỗi
khát khao thiêu đốt xác thịt. Rồi ngọn lửa
bừng lên trong một cơn phấn khích mê cuồng nàng bấu chặc hai tay vào hai bầu vú
căng tràn. Nàng tỉnh dậy và rơi vào nỗi cô đơn triền miên.
Bây giờ nàng cũng đang đi trên cái lối mòn đó như một xác định
sau cùng cái phận người nghiệt ngã đang chơi vơi trong hố thẳm của cuộc kiếm
tìm. Nàng đi tìm Hạ hay đi tìm chính số
phận mình, đi tìm tia lửa cuồng nhiệt của xác hồn nàng mà Hạ đã nhiều lần thổi
bùng lên.
Ánh nắng ban trưa xuyên qua màn cây bị gió lay nhẹ làm những giọt
nắng chập chờn như những cánh bướm trong một câu chuyện thần thoại. Diệu ngồi xuống tựa vào một gốc cây, nhìn bốn
bề yên lặng, một con sóc nâu rụt rè ve vẫy cái đuôi, đôi mắt như hai hạt cườm từ
bên cành cây khác nhìn nàng như tự lượng có điều gì nguy hiểm xảy ra cho nó
không, rồi vụt một cái nó biến vào bụi rậm.
Hình như có tiếng người vang nho nhỏ bên con đường mòn rẽ ngang chỗ nàng
đang ngồi. Diệu quay nhìn lại: hai người
phụ nữ đang vừa đi vừa nói chuyện, họ đang tiến về phía nàng. Diệu đứng lên định bước đến chỗ họ, nhưng họ
đã gần kề, nàng lên tiếng:
-
Chào hai chị.
Hai người phụ nữ, một đã đứng tuổi, một còn trẻ, bỡ ngỡ nhìn
nàng từ đầu đến chân, rồi gương mặt họ bỗng trở nên vui ra, thân ái.
-
Cô đi đâu mà ngồi giữa rừng thế này. Người lớn tuổi hỏi.
-
Lối này dẫn vào một ngôi làng phải không hai chị?
-
Vâng, chúng tôi ở đó.
-
Ô, may quá, hai chị cho em theo về
-
Cô đến nhà ai ở đó?
-
Em không quen ai ở đó cả.
-
Thế cô về đó làm gì? Người
phụ nữa trẻ im lặng nảy giờ mới lên tiếng.
-
Dạ đi tìm.
-
Tìm ai?
Diệu ngơ ngác, không biết trả lời ra sao nhưng người lớn tuổi đã
nói:
-
Có phải cô đi tìm một người đàn ông cách đây mấy tháng đã ghé
ngang qua làng này, phải cha của cô không?
-
Dạ không.
Tần ngần giây lát rồi Diệu nói:
-
Nhưng em cũng muốn đi tìm ông ấy. Bây giờ ông không còn ở trong làng sao?
Nàng lo lắng hỏi.
-
Ông ta chỉ ở lại một đêm rồi đi.
Diệu muốn biết thêm thông tin về người đàn ông nhưng người phụ nữ
lớn tuổi đã giục:
-
Thôi chúng ta về, không khéo không kịp trời tối.
-
Các chị đi hái măng rừng hả?
Diệu hỏi và nhìn thấy họ sắp đội lên đầu một cái bao đựng măng.
-
Vâng. Người trẻ tuổi trả
lời. Chúng tôi ở đây sống nhờ vào núi rừng. Đời sống khổ lắm, nhưng biết làm sao, không
quay về được.
Diệu biết rất rõ những điều này, nàng không muốn đi sâu vào hoàn
cảnh của những con người đang cư ngụ trong cái làng này. Những con người đã bị tước đoạt tất cả và bị
lùa vào đây bằng những áp lực che đậy đủ mọi danh hiệu tốt đẹp. Có một số người chịu đựng không nổi với đói
khổ, sốt rét, đã bỏ trốn về thành phố, nhưng nhà cửa không còn, họ sống chui nhủi
bất hợp pháp, dưới những gầm cầu kênh rạch, làm tất cả mọi việc, kể cả ăn cắp để
có cái ăn.
Ba người lầm lủi đi, phút gặp gỡ ban đầu đã qua, sự mệt mỏi và
lo âu xâm chiếm lòng họ, nên chẳng còn ai nói với ai, họ im lặng đi trong cái lặng
yên của đất trời. Diệu thầm nghĩ trong
lòng không biết người đàn ông đã đi về đâu, rồi trên bước đường dong ruổi đó
ông có gặp điều gì bất trắc không. Từ lâu,
từ cái ngày tì tay vào khung cửa sổ ngóng về một phương trời xa lắc, mà ở đó
bóng dáng Hạ chập chờn hư ảo. Nàng sống
trong nỗi cô đơn cùng cực, và nàng mãi nghĩ rằng sao trên đời này, cả hàng tỷ
con người này, chỉ có mỗi mình nàng đơn độc.
Bây giờ trước nỗi đau của người đàn ông đó, nàng chợt nghĩ rằng không phải
chỉ một mình nàng, mà còn rất nhiều, rất nhiều những mảnh đời trôi giạt khắp thế
gian này, bơ vơ, lạc loài, sau cuộc chiến tranh thảm khốc và phi nhân, cuộc chiến
đã đẩy dân tộc này, loài người này vào những cảnh ly tan bi thương. Và để rồi sau khi đã thỏa mãn trong một cuộc
tương sát khốc liệt, những người nhân danh hòa bình tự do lại đẩy con người vào
những lo sợ kinh hoàng hơn, những tan nát đổ vỡ hơn. Con người không còn chết vì bom đạn nữa mà chết
vì đói khát, bệnh tật, chết vì lo sợ trong những khu tập trung. Con người đứng trước nguy cơ sụp đổ cả cái
ngôi nhà đạo lý đã dày công xây dựng mấy ngàn năm để đi tôn vinh vật chất, lừa
gạt, phản bội nhau…
Diệu thấy nặng trĩu trong lòng.
“Sao anh không về hỡi Hạ, người ta nói hòa bình rồi”.
Con đường đã bắt đầu sẫm lại.
Mặt trời khuất vào những dãy rừng xa.
Gió xào xạc và lành lạnh. Dù mõi
mệt, Diệu vẫn cố bám theo hai người phụ nữ đang hối hả bước đi.
-
Còn bao xa nữa? Nàng hỏi.
-
Đi khoảng một tiếng nữa là tới.
Cô mệt sao? Người phụ nữ trẻ ân cần
hỏi Diệu.
-
Em cố được. Chỉ hơi đau
chân.
-
Gắng tí nữa. Tối nay cô
nghĩ chỗ tôi. Người phụ nữ trẻ an ủi Diệu.
-
Đi như thế này có sợ thú dữ không chị?
-
Cô yên tâm, ngay những con thú hung dữ nhất cũng bỏ đi sâu vào
núi cao rừng thẳm rồi. Chúng nó sợ loài
người.
“Chúng nó sợ loài người”.
Diệu mỉm cười chua chát. Con người
bây giờ đã xâm chiếm chốn cư ngụ của muôn thú, giành giật nơi ở cái ăn của
chúng, thậm chí chúng còn bị sát hại không thương xót. Cây rừng còn đổ máu. Suối rừng còn khô lệ. Bao giờ thì con người, cỏ cây, muôn thú sống
thực hòa bình? Diệu nhớ tới mấy câu thơ
của một người nào đó:
“Hỡi những thiên thần quỷ dữ hãy nằm yên
Cho em lại là em
Thuở đất trời nguyên thủy
Cho tôi cũng là tôi
Thuở hồng hoang bừng dậy
Để một giây một phút rất phù du
Mầu nhiệm mở tung cánh cửa ngục tù
Em đứng khóc dưới chân đồi hạnh phúc
Ta viết nốt câu thơ ngàn năm trước…”
Ước vọng của nhà thơ là một ước vọng đầy nhân bản nhưng sao nghe
trong giọng điệu không che giấu được nỗi bi thương của nguồn tuyệt vọng. Diệu lại thấy lòng mình trào dâng một nỗi
thương cảm vô bờ. Nàng nhìn bóng hai phụ
nữ xiêu vẹo chập chờn phía trước, họ đội mấy bao măng, đầu cuối xuống. Họ thấy gì trong từng bước chân của
mình? Họ thấy gì trong nỗi lòng đầy lo
âu của họ? Họ sẽ trở thành những con người
của rừng núi mãi mãi, mãi mãi, đến cả đời con cháu họ sao? Còn nàng?
Nàng đang đi về đâu đây? Khi phía
trước là mênh mông mù mịt. Nhưng, nếu không
ra đi, không dấn thân vào cuộc kiếm tìm vô vọng, không đợi chờ mòn mõi thì nàng
sống vì cái gì? Sống cho ai đây?
Chân trời hạnh phúc đó ở đâu để em về ngồi mà khóc, khóc trong
nguồn hoan lạc bi thương. Để anh về viết
tiếp bài thơ ngàn năm trước, những câu thơ từ thuở khai sinh đất trời.
Ba người phụ nữ vừa đến đầu làng thì trời cũng nhá nhem tối. Diệu đưa tầm mắt dò theo những căn nhà lụp xụp
thưa thớt dưới những tàng cây. Vài ánh
đèn leo lắt như những con đom đóm khuất khuất hiện hiện sau vách nứa.
Buổi chiều nơi một vùng rừng núi dù được xây dựng thành một cái
làng nho nhỏ sao Diệu chẳng thấy có hình ảnh nào của một làng quê truyền thống. Nó im lặng đến độ rùng mình khiến ta có cảm
giác lạc vào một thế giới hoang vu nào.
Nếu không có, thỉnh thoảng, vài tiếng chó sủa vu vơ lạc lỏng trong không
gian vắng lặng này, và nếu không có bóng ba người phụ nữ di động thì hầu như
toàn bộ không gian này là một bức tranh chết.
Một bức tranh mà tác giả của nó trong một cơn loạn trí đã tạc cả khối
màu lẫn lộn cả đất cát, máu và nỗi tuyệt vọng lên khung vải. Trong toàn bộ cái khung cảnh chết lặng đó Diệu
nhìn thấy một cụ già gầy xọp, tóc loe hoe bạc, quàng một tấm bao bố ngồi xụp
bên đường, đôi mắt chìm trũng, tối tăm và khổ hạnh. Người phụ nữ trẻ vội chạy đến bên bà cụ.
-
Trời! Sao mẹ ra ngồi đây?
Quay sang Diệu chị tiếp:
-
Mẹ tôi đấy, bà yếu lắm.
Chị dìu bà cụ đứng lên, bà móm mém, hơi thở mệt nhọc, nói không
thành tiếng rõ ràng:
-
Ai?
Chị không trả lời, Diệu cũng đến đỡ bà cụ một bên, người phụ nữ
nói:
-
Nhà gần đây, cô về với chúng tôi.
Sau khi chào người đàn bà lớn tuổi, Diệu cùng mẹ con người phụ nữ
trẻ rẽ vào một lối mòn nhỏ. Căn lều thấp
lè tè nằm sau khoảng sân hẹp. Một đứa bé
chừng năm tuổi chạy vội ra:
-
A! Mẹ về. Nó reo lên vui
mừng, rồi nhìn Diệu nó vòng tay chào.
Diệu xoa đầu thằng bé.
-
Cháu ngoan lắm.
Đó là một thằng bé có đôi mắt hơi tối, da ngăm đen, tóc cứng lõm
chõm, nó chạy đến bên mẹ, hỏi nhỏ:
-
Ai đó mẹ?
Diệu chợt thấy lòng buồn rười rượi. Nàng nhìn lướt quanh. Người mẹ già đã ngồi
bên thềm, mắt ngóng ra đường mòn, không nói gì, người phụ nữ lăn xăn nhóm lửa. Đồ đạc trong nhà chẳng có gì, một cái giường
tre, trên đó tấm chiếu đã rách, vài cái gối và cái mùng cũ nhầu bẩn. Nàng nghĩ người phụ nữ này không lớn hơn nàng
là mấy nhưng đời sống lam lũ thiếu thốn quá trông chị như già hơn nàng cả chục
tuổi. Dù cố nén sự tò mò, nhưng cuối cùng
Diệu vẫn hỏi:
-
Ba cháu đâu mà không thấy chị?
Người phụ nữ vừa thổi lửa vừa trả lời:
-
Ảnh mất mấy năm rồi, lúc cháu mới hai tuổi.
Diệu không thấy bàn thờ đâu.
-
Chị quê đâu?
-
Tôi cũng chẳng nhớ quê quán nơi nào. Hồi chiến tranh chạy tán loạn, cha mẹ anh chị
em chết hết, tôi sống ở cô nhi viện.
Chị thở dài:
-
Lớn lên lăn lóc đường phố, gặp ba cháu cũng dân chạy loạn, vô
gia cư, ảnh làm phu khuân vác, tôi buôn thúng bán bưng, che mấy tấm bạt dưới gầm
cầu. Nhưng đùng một cái: hòa bình! Họ bảo chúng tôi là thành phần nguy hiểm cho
xã hội, lùa lên đây. Mấy năm đầu sốt
rét, đói, ỉa chảy…chết nhiều, ba cháu cũng chết vì sốt rét, không có thuốc. Nhiều người trốn về, tụi tôi chịu, đành bám
đây.
Ngưng kể chuyện, chị nhìn thằng bé đang lấy những mụt măng từ trong
bao ra đặt cẩn thận lên ngạch cửa:
-
Chỉ tội thằng bé! Thôi
thì xin đất trời phù hộ, mai sau này có thay đổi gì…
Chị bỏ lững câu nói.
“Mai sau có thay đổi gì”.
Diệu thấy cay đắng trong lòng.
Nàng, nàng có mong “mai sau thay đổi gì” trong sự chờ đợi khắc khoải vô
vọng này không? Diệu nghĩ, nếu có thể
đánh đổi được số phận, nàng muốn mình là người phụ nữ này, muốn làm vợ, muốn
làm mẹ. Cho dù anh ấy đã chết, vẫn còn
thằng bé, hiện thân của anh, máu thịt của anh, nàng đâu phải chịu cô đơn dày vò
thế này. Tuổi xuân rồi cũng tàn. Hạnh phúc ái ân đâu có chờ đợi nàng năm năm,
mười năm nữa.
-
Cháu, lại đây với cô.
Nàng gọi thằng bé, nó rụt rè
đến bên Diệu, Diệu ôm nó vào lòng, nước mắt ứa ra quặn thắt. “Trời ơi, nếu anh để lại cho em một đứa con!
Anh bảo chờ hòa bình. Hay là vẫn chưa có
hòa bình? Vì anh chưa về phải
không?” Diệu hôn vào trán thằng bé, lòng
trào dâng một nỗi khát khao làm mẹ. Nàng
quay về phía bà cụ đang ngồi bất động bên hiên nói với người phụ nữ:
-
Chị đưa cụ vào nằm cho khỏe, hình như cụ có điều gì nặng trĩu
trong lòng.
-
Từ ngày ảnh mất, bà trở nên âm thầm như cái bóng, sức khỏe sút
giảm. Tôi nghĩ mẹ sẽ không sống được bao
lâu nữa.
-
Hay chị đưa cụ và cháu về thành phố.
-
Không được đâu cô.
Về thành phố. Nàng đã chẳng
rời thành phố để về một vùng quê hẻo lánh đó sao. Thành phố.
Cái thành phố tràn ngập những kỷ niệm lại là một chứng nhân của bao đổ
nát, ly tan. Hình bóng của phố phường
ngày xưa đâu còn nữa. Bây giờ ở đó là bụi
khói, là rác, là cống rãnh của lũ chuột, lũ mèo hoang, là chốn của một lớp người
cơ hội từ một hang ổ nào đó nhảy tót lên ngồi vào chiếc ghế thượng lưu, đại gia
trong những cao ốc, biệt thự sang trọng bên cạnh đám dân nghèo bán mồ hôi nước
mắt cả ngày không đủ mua bữa cơm dưa mắm.
Nàng đã rời xa thành phố, rời xa cái cạm bẫy mà những người phụ nữ như
nàng, nếu không đứng vững được sẽ rơi ngay vào ổ mãi dâm, vào các quán bia ôm,
bán thân xác của mình, ngủ cả với những thằng đàn ông bằng tuổi ông nội ông ngoại,
với những thằng nhãi đáng tuổi em tuổi con.
Chúng nó có tiền, đồng tiền của chúng không tốn một giọt mồ hôi.
Diệu nhớ đã gặp một người phụ nữ cũng trạc tuổi người phụ nữ trẻ
này, bỏ quê lên thành phố kiếm việc làm, nhưng cuối cùng bị đẩy vào con đường
làm gái mãi dâm và đã chết vì không chịu nổi một toán côn đồ thay phiên nhau cưỡng
hiếp, để lại một đứa con dại và mẹ già ở quê nhà. Báo chí có nói đến nhưng chẳng
đến đâu. Không tìm ra người thân của nạn
nhân. Vụ việc chìm vào bóng tối, không
ai còn quan tâm tới nữa.
-
Cháu nó ở đây thiếu thốn rất nhiều, người phụ nữ trẻ nói, không
được đi học. Trước ở đây cũng có một lớp
học nho nhỏ, một cô dưới xuôi lên, được mấy tháng cũng bỏ về. Chúng tôi sống dường như bị quên lãng. May mà chúng tôi vẫn tìm ra cái ăn.
Người phụ nữ dọn cơm ra trên một cái sàn bằng tre đặt giữa
nhà. Diệu ngồi ăn với họ, mỗi miếng cơm
và vào miệng nàng nghe cả một nỗi cơ cực chảy vào lòng.
Diệu đã từng ở những vùng quê thời nàng còn làm giáo viên, nhưng
có lẽ không có một vùng quê nào giống ở đây.
Nó im lặng đến dị thường. Nỗi lặng
yên này hiện ra vẻ chịu đựng cam đành, cuộc sống trôi đi như trôi trong một
dòng nước ngầm chẳng bao giờ thoát ra được.
Thậm chí sự xuất hiện của người đàn ông lạ, và bây giờ là Diệu, cũng chẳng
thể gợn lên chút xao động. Nếu Diệu
không hỏi chắc người phụ nữ cũng không đá động gì việc người đàn ông lạ đến đây
và vội vã đi sâu vào rừng.
-
Ông ta đến đây lúc đã
khuya lắm, vào một nhà gần đây xin nước và nằm ngủ ngoài hiên. Ông không nói gì nhiều nên chẳng ai biết ông
từ đâu tới. Ông chỉ hỏi qua khỏi khu này
là đi đâu. Đi khỏi khu làng này rồi băng
qua một cái truông dài chạy mãi đến chân núi.
Đi bộ phải mất hơn ngày đường cô ạ.
-
Ông không nói ông vào núi làm gì hả chị?
-
Ông chỉ nói ông đi cho đến khi nào không thể đi được nữa. Thậm chí có thể băng qua núi. Nhưng cô là gì của ông ta?
-
Em không là gì cả.
Rồi Diệu kể chuyện ông ghé ngang nhà xin nước, trao đổi với Diệu
đơn giản về thân phận và mục đích cuộc ra đi tìm kiếm vô vọng của ông. Diệu cũng không thể nói rõ với người phụ nữ
mình đi tới đây với mục đích gì.
-
Gần dưới chân núi có một ngôi chùa cổ cô ạ. Hình như có một vị sư già và một chú tiểu. Dân làng này có người đã đến đó rồi. Họ đến để xin thuốc chữa bịnh. Nghe đâu vị sư biết chữa bịnh và bốc thuốc,
phần nhiều là lá cây rừng, ông không lấy tiền, chỉ làm phúc.
Có lẽ người đàn ông đã đến được ngôi chùa. Diệu hy vọng ông còn ở đó, và Diệu hình như
tin như thế. Bởi nếu không, ông đã quay
trở lại rồi, cho dù có lần ông đã khẳng định không bao giờ quay lại lối
cũ. Diệu cũng không tin ông đủ can đảm
và quyết tâm vượt núi trong khi không có một tí hành trang gì. Nếu ông liều lĩnh qua núi chỉ có chết, không
đói lạnh, té ngã thì rắn rít, thú dữ cũng quật ngã ông.
Biết Diệu có ý định sớm vào núi, người phụ nữ trẻ tốt bụng đã dậy
từ lúc gà gáy canh hai nấu rồi gói cho Diệu một gói cơm, một ít muối đậu rang
và bình nước. Cả đêm Diệu cũng không ngủ
được, nàng ôm thằng bé nằm dưới nền nhà, lòng rưng rức nhớ đến Hạ. Cơ thể nàng căng ra trong cảm giác vừa đớn
đau vừa tiếc nhớ.
Cuộc chiến bi thảm mấy mươi năm đã để lại trên quê hương này,
trên mặt đất này bao nhiêu người phụ nữ như Diệu, như người phụ nữ trẻ
kia? Tuổi thanh xuân bị tước đoạt, bị
đánh cướp, để lại trong tâm hồn họ, trên cơ thể họ những vết thương không bao
giờ lành sẹo. Để lại bao nhiêu người mất
tích không biết đã chết hay sống vô hồn nơi thâm sơn cùng cốc nào, không còn
trí nhớ để tìm về nơi chốn thân yêu. Để
lại bao nhiêu con người què cụt tàn phế không nhà không cửa lê lết bến xe cửa
chợ. Để lại bao nhiêu trẻ thơ không cha
không mẹ mà thiên hướng “tính bản thiện” đã bị xóa mờ vì cái đói, vì bản năng sống
còn, để cái xấu đồng lõa cả một thế hệ trẻ thơ biến thành kẻ cắp. Mười mấy tuổi đầu đã biết giết người. Mười mấy tuổi đầu đã làm gái điếm. Để lại bao nhiêu trũng mắt sâu hoắm vì đã khô
nước mắt của mẹ già, của cha già mấy mươi năm khóc than, héo mòn chờ đợi hòa
bình, chờ đợi con về, rồi bây giờ vẫn còn chờ đợi, còn khổ đau, vì các con
không về, vì các con chết trên rừng, dưới biển trong những cuộc trốn chạy vì bị
khủng bố, bị săn đuổi. Để lại những mảnh đời lang thang kiếm tìm trong vô vọng,
như Diệu, như người đàn ông hôm nào.
Trong cảnh tịch mịch của núi rừng, tiếng gà một lần nữa lại vang
lên như nhắc nhở Diệu bóng đêm rồi sẽ qua và ánh sáng của ngày sẽ đến. Và cho dù tiếng gà vẫn còn khàn đục trong
sương vẫn cứ là tiếng báo hiệu lên đường.
Diệu mở túi lấy ra mấy chục bạc, rất cảm động, nàng nói với người phụ nữ
trẻ tốt bụng:
-
Em chẳng có gì nhiều, gởi chị chút đỉnh mua thêm áo quần cho
cháu, hy vọng có dịp quay lại em sẽ ghé.
-
Không cô ạ. Tôi không nhận
tiền của cô đâu. Tuy chưa biết cô là ai
nhưng tôi thương tôi nên tôi mến cô.
-
Vậy thì chị phải nhận cho em.
Đây là chút tình, không phải em trả ơn trả nghĩa gì đâu.
Diệu nhét tiền vào túi người phụ nữ. Hai người ôm nhau và hình như họ đang khóc,
khóc cho nhau và khóc cho chính thân phận của họ.
Diệu hôn thằng bé lần nữa.
Tay nải lên vai, nàng cúi đầu trước bà cụ còn nằm không biết đã thức hay
đang ngủ, nàng bước ra ngõ, hướng về phía khu rừng, cúi đầu đi không dám quay lại.
Buổi sáng lạnh và ướt sương, lối mòn mập mờ màu trắng đục. Vài con chim ngái ngủ kêu lên mấy tiếng chim
chíp lạc loài rồi cảnh vật chìm vào sự im lặng. Diệu vòng tay lên ngực như tự
trấn an mình hãy can đảm bước đi, bàn tay nàng chạm phải hai bầu vú đang rung
rung theo từng nhịp bước. Nàng lại nghĩ
tới Hạ và lâng lâng tiếc nuối một nguồn ái ân đã mất.
Nàng đến và đi cũng thầm lặng và vội vã như người đàn ông
kia. Ngoài gia đình hai người phụ nữ
nàng đã gặp, cả làng hầu như chẳng ai hay biết đêm qua có một người khách lạ
ghé qua và đã ra đi như “một người xa lạ”.
Người xa lạ muốn giang tay ôm trong vòng tay của mình đám cư dân nghèo
đang đành cam sống bị quên lãng nơi vùng rừng núi heo hút này.
Diệu đã đi hình như cũng quá xa rồi, mặt trời lên cao và dần dần
dịu lại về chiều, thế mà cánh rừng thì vẫn xa mù. Nàng chỉ dám dừng lại bên rừng ăn vội vắt
cơm, mặc dù hai chân rã rời nàng vẫn cố vội lên đường. Hình như có điều gì thôi thúc trong lòng nên
nàng cũng thấy quên đi phần nào sự mệt mõi dưới cái nắng gay gay lạnh của miền
rừng hoang vắng này. Trên con đường mòn hun hút băng qua một truông dài toàn cỏ
tranh và bông mua, không một bóng người. Giữa không trung vắng lạnh một con
chim heo cất tiếng kêu ghê rợn.
Trong những giấc mơ của mình, hình như Diệu đã từng thấy cảnh
này. Nàng thấy nàng băng qua một vùng đồi
đá hoang vu, vừa khát vừa đói và mệt lã.
Trên đầu nàng từng bầy quạ đen bay loạn xạ và kêu những tiếng kêu ma
quái. Khi nàng ngất xỉu nằm xuống bên đường,
chúng sà xuống đậy trên xác nàng thành một khối đen và nàng thấy bầu trời tối
như mực. Bừng mắt tỉnh dậy nàng thấy hai
bàn tay mình bấu chặc vào hai bầu vú gần rướm máu, rồi nàng khóc nức nở một
mình. Bây giờ trên lối mòn gần giống như
trong giấc mơ, nàng đang cố lê chân về phía khu rừng, nơi có ngôi chùa cổ, và
nàng hy vọng gặp người đàn ông hôm nào ở đó.
Trời càng về chiều khí núi càng lạnh, trong hơi thoang thoảng của
gió có mang theo chút hiu hắt của sương chiều, rồi mặt trời khuất hẳn sau núi
như vội vã đi về một cõi nào để trả lại mặt đất cho màn đêm. Diệu vừa đi vừa nhìn bóng mình tối dần, tối dần,
hòa vào không gian mờ mờ leo lắt những vì sao xa. Lần đầu tiên trong cuộc hành trình Diệu cảm
thấy sợ sợ bóng tối, dù nàng đã vẫn thường ngồi tì tay vào khung cửa sổ lặng
yên trong bóng đêm nhìn hun hút vào cánh rừng xa.
Trời càng về khuya càng lạnh, Diệu không muốn dừng lại, vã lại
ngồi một mình giữa truông dài mông quạnh này càng thấy sợ hơn là cứ lầm lũi bước
đi. Nàng cố tưởng tượng ra cuộc gặp gỡ
giữa nàng, người đàn ông và vị sư già nơi chùa cổ. Nàng sẽ nói gì với họ và giải thích sao đây sự
có mặt của nàng, một phụ nữ xa lạ giữa nơi tu hành này. Nhưng lại cảm thấy yên tâm vì biết rằng mình
sẽ đến, không phải là một nơi nguy hiểm nào, mà là một ngôi chùa, nàng sẽ nhìn
thấy Đức Phật, và Ngài sẽ nhìn nàng với hai con mắt từ bi. Rồi nàng sẽ ra sao? Nàng tin, Đức Phật từ bi sẽ dẫn dắt nàng cho
dù ước mơ của nàng đầy tính chất trần gian: nhớ về Hạ với niềm khát khao cháy bỏng
ái ân.
Thế rồi không cưỡng lại được cơn buồn ngủ vì mõi mệt, nàng ngồi
bệt xuống, hoàn toàn vô thức, dưới gốc một cây cổ thụ già đã bị cụt đầu. Trăng hạ huyền phủ một lớp ánh sáng lạnh lẽo
lên cảnh vật. Nàng thiếp đi và chìm sâu
vào giấc ngủ.
Hình như có tiếng chuông mõ công phu văng vẳng, lúc vang vang
lúc chìm lắng như từ cõi xa xăm nào vọng về.
Một con chó màu trắng điểm những đốm vàng từ trong chùa chạy ra
như cảm nhận được có người lạ, nó sủa mấy tiếng và chạy đến bên người khách
đang ngủ mê man, nó gầm gừ nho nhỏ, cẩn thận bước đến gần, thấy không có gì
nguy hiểm, nó đưa mũi ngửi ngửi người lạ, rồi thân mật liếm vào chân tay, ve vẩy
cái đuôi như chào đón.
Diệu ngủ say sưa không hay biết gì. Vị sư già, sau buổi kinh công phu, Ngài thiền
tọa một thời gian, ngày nào cũng vậy, xong Ngài đi một vòng quanh chùa, thấy
con Cừu Nâu, tên chú chó, Ngài bước thẳng ra, nhìn thấy Diệu, Ngài hơi ngạc
nhiên:
-
A Di Đà Phật!
Sương lạnh đọng một lớp trắng trên áo quần, trên tóc của người
phụ nữ. Vị sư già quay vào trong gọi, giọng
nhỏ nhẹ:
-
Con ơi, mang ra cho thầy cái chăn.
Một lát sau, một chú bé, áo quần nâu, tóc để chổm, mang cái chăn
ra. Theo lời thầy chú quàng tấm chăn lên
người phụ nữ đang ngủ. Trước khi quay
vào chùa, thầy dặn chú tiểu:
-
Con ở đây một lát, khi nào cô ấy thức dậy thì dẫn vào gặp thầy.
-
Ta vào thôi con. Ngài nói
với con chó.
***
Trời đã rạng sáng. Diệu
ngủ ước chừng bốn tiếng đồng hồ. Nàng tỉnh dậy, đưa tay dụi mắt. Một cánh rừng xanh bốn bề lạnh ngắt và se lạnh. Nàng hơi ngạc nhiên vì tấm chăn choàng lên
người. Sau một giấc ngủ sâu, nàng thức dậy
tỉnh táo và khỏe khoắn hơn. Nàng đoán là
mình đã đến gần chùa. Thật ra lối mòn dẫn
đến cổng chùa là hết. Muốn vào sâu trong
rừng phải đi một lối ở sau chùa. Nàng
không để ý chú tiểu ngồi ngủ gật bên cạnh vì nàng mãi nhìn ngược về lối mòn mà
nàng vừa mới qua. Diệu nghĩ có ai đó đã
đem chăn đắp cho nàng.
Chú tiểu giật mình vì con Cừu Nâu đang vờn quanh chỗ chú ngồi. Thấy người khách lạ đã thức, chú chắp tay trước
ngực:
-
A Di Đà Phật. Cô đã dậy rồi,
cháu thấy cô ngủ ngon lắm nên…
Diệu cũng giật mình quay lại:
-
Chào cháu, đây là đâu?
-
Mô Phật.
-
À, chào chú, chú ở trong chùa gần đây phải không?
-
Dạ. Thầy dặn cháu khi nào
cô thức dậy thì mời cô vào.
-
Bao xa nữa thì tới chùa chú?
-
Chùa đây rồi, từ đây vào vài trăm mét, chắc là thầy đang đợi cô.
Diệu nhìn theo hướng tay chú tiểu chỉ vào bên trong, chỉ thấy những
cây cổ thụ cành lá sum suê xanh ngắt gió đang làm lay động. Nàng đứng lên vuốt lại mái tóc lòa xòa, tay nải
vẫn còn vướng trên vai, nàng hỏi chú tiểu:
-
Chú tên gì vậy?
-
Dạ thầy thường gọi cháu là Tiểu Khê
-
Chú Tiểu Khê này?
-
Dạ.
-
Có khi nào chú thấy có một người đàn ông lạ vào đây như tôi hôm
nay không?
Tiểu Khê không trả lời câu hỏi của Diệu, chú giục:
-
Chúa đưa cô vào giếng chùa rửa mặt đã, rồi vào gặp thầy.
Nói xong chú thoăn thoắt bước đi, con Cừu Nâu cũng ve vẫy đuôi
chạy theo chú, không quên quay lại nhìn Diệu kêu ư ừ mấy tiếng như cũng muốn mời
mọc thân thiện.
***
Vị sư già ngồi chờ Diệu sau hậu liêu, nơi một căn phòng được
ngăn ra làm phòng tiếp khách thập phương, phòng này ăn thông với gian nhà tăng,
kế đó là phòng trai và giàn bếp. Theo
chân chú tiểu, Diệu bước vào. Vị sư già đang ngồi nói chuyện, uống trà với một
người đàn ông, người này xoay lưng về phía nàng, nàng chắp tay chào vị sư.
-
Con chào thầy.
-
A Di Đà Phật.
Người đàn ông quay lại, không giấu nỗi ngạc nhiên:
-
Trời! Là cô sao? Sao cô lại
đến đây?
-
Hai người biết nhau à? Vị
sư già hỏi. Cô ngồi xuống đây.
Diệu nhìn người đàn ông đã một lần ghé chỗ nàng và đã ra đi như
một kẻ hành hương vô định. Diệu ngồi nép
phía sau người đàn ông, giọng nàng không giấu nỗi vui;
-
Dạ bác đây có ghé chỗ con một lần rồi đi, dễ chừng cũng mấy
tháng rồi. Từ đó cháu cứ nghĩ tới bác,
và cũng từ lâu cháu có ý định viếng chùa.
Nàng chưa thể nói rõ mục đích của chuyến đi này.
Vị sư già nhìn nàng rồi lại nhìn người đàn ông:
-
Ông đây đã nói với tôi về việc đi tìm người con thất lạc trong
chiến tranh. Thật ra đây không phải là
trường hợp duy nhất tôi gặp. Ông đây định
vào sâu trong rừng nhưng tôi can, vì từ đây vào chi núi rừng trùng điệp, không
có bóng dáng con người. Một mình lạc lỏng trong rừng núi đèo cao hố thẳm, bao
hiểm nguy. Mà tìm gì? Tìm một con người trong cõi vô minh đó sao?
Vị sư già trầm ngâm một lát như muốn nói gì thêm về con đường giải
thoát, về nơi, mà con người phải tìm kiếm, phải đến. Những con người đang ngồi trước Ngài đây chưa
thoát ra khỏi những mông muội trần gian.
Ngài, đôi khi còn thấy bản thân mình còn quẩn quanh. Nhưng Ngài, Ngài đã
biết chọn cho mình CON ĐƯỜNG, và chỉ duy nhất CON ĐƯỜNG đó
mới giải thoát được. Vị sư già hớp một
ngụm trà nóng, phong thái ung dung như một đạo sĩ. Ngài không béo mập như phần đông các vị tu sĩ
khác, dáng Ngài ốm, cao và quắt thước, đôi mắt tinh anh và bao dung. Ngài nhìn về đâu thì hình như ở nơi đó trở
nên bình yên, và kẻ đối diện với Ngài thấy an tâm và từ đó lóe ra niềm hy vọng
không lý giải được vì đâu. Ngài đổi cách xưng hô, nhìn Diệu ôn tồn:
-
Con không nói ta cũng biết trong lòng con thế nào. Con đang còn một nỗi đau đớn trần gian, con
đang bị những khát vọng cào xới tâm hồn.
Ta cũng biết con nghĩ gì về những điều ta vừa nói.
Quay về phía người đàn ông vị sư già tiếp:
-
Như ông đây cũng vậy.
Không tin vào sự giải thoát sau cùng, không biết cầu nguyện. Con đến đây, dù chẳng nói với ta, ta cũng biết
con đang đi tìm gì. Con đi tìm chính
con, phải không? Con cảm thấy mình mất
chính mình, mình đã thuộc về một khối vật thể khác. Ta nói chắc con hiểu. Nhưng thôi…
Diệu lễ phép:
-
Dạ thưa thầy…
-
Khoan. Để ta nói cho con
yên lòng, như ta đã nói với người này.
Ngài chỉ người đàn ông, chúng sanh vạn khổ vô minh. Phật pháp mênh mông vô lượng. Ta luôn đón nhận các con với lòng từ bi. Các con có thể đi, dấn sâu vào cuộc kiếm tìm
mù mịt, nhưng ta vẫn mong các con dừng chân, đây mới là nơi con cần tìm đến.
Người đàn ông từ sớm đến giờ vẫn yên lặng lắng nghe, không biểu
hiện một phản ứng nào trên gương mặt, bây giờ quay về phía sau, vừa nhìn Diệu vừa
nhìn ra khoảng sân sau nơi có một người đang đi tới đi lui, miệng lẩm bẩm như
đang đọc kinh Phật.
-
Cô à, mà cô tên gì nhỉ?
Còn tôi, trước kia người ta vẫn thường gọi tôi là thầy giáo, thế thôi,
không ai gọi chính xác tên tôi là gì. Thầy
giáo cô ạ.
-
Cháu là Diệu.
-
Cô hãy nhìn ra phía sau, ngoài sân kia.
Diệu nhìn ra. Người thanh
niên vẫn đi tới đi lui ung dung tự tại như một bậc thiền giả đang hành thiền. Cái vòng sân vừa đủ rộng bấy giờ hình như đối
với anh ta nó cũng vô bờ vô bến. Anh ta
đi như một kẻ đi trong cõi vô cùng. Người
anh cao, nhưng dáng đi hơi khom về phía trước.
Anh vận một bộ đồ màu nâu, đôi tay hơi ôm lại, đầu tóc khô cháy, khuôn mặt
anh chìm khuất dưới bóng mát của mấy cây đại, Diệu nhìn không rõ. Anh bước đi thật bình thản, mắt nhìn xuống mặt
sân như đi chỉ là đi, đi nhưng không đợi chờ nơi đến.
Vị sư già nhìn về phía người đang đi lại trên sân, ánh mắt của
thầy toát lên vẽ nhân ái từ bi. Cả ba
người đang quan sát bậc thiền giả bước đi ung dung lạ thường.
-
Người ta đưa anh ta đến đây gần hai năm rồi, vị sư nói, một nhóm
người đi tìm trầm hương, một tối nọ họ đưa anh ấy đến đây. Họ kể: Toán của họ gồm bốn người, vào tận non
cao dựng lều và chia nhau đi tìm những cây gió, loại cây cho một thứ trầm hương
rất quý. Ngày đi, tối về lều. Một hôm họ phát hiện thức ăn trong lều bị mất. Lúc đầu họ nghĩ lũ khỉ tinh nghịch vào
phá. Nhưng sau họ rình. Và đúng là có một con người chứ không phải lũ
khỉ. Đấy, con người đang đi đi lại lại
ngoài kia. Cả người anh ta đầy thương
tích, có chỗ vẫn chưa lành, tóc tai cháy sém, khuôn mặt dị dạng trông thật kinh
khủng. Chỉ, rất lạ, và nhiệm mầu, đôi mắt
anh ấy vẫn nguyên vẹn. Trí nhớ không
còn. Không nói được. Họ bắt được anh ấy, cho ăn uống, thay áo quần,
tắm gội. Và họ đành bỏ chuyến đi tìm trầm, mang anh ấy đến đây…
Vị sư già ngừng kể, nói với hai người:
-
Chúng ta ra gặp anh ấy.
Ba người cùng bước ra sân. Người thanh niên vẫn bước đi theo từng
chu kỳ, không để ý đến ai. Thoạt nhìn Diệu
hốt hoảng. Diệu bỗng nhớ tới gương mặt của
một nhân vật trong phim, một nhạc sĩ bị cháy bỏng vì acid trong xưởng in. Vị sư dừng lại trước người thanh niên, giang
hai tay như muốn ôm. Anh dừng lại, nhìn
vị sư, nhìn hai người khách, cái nhìn thân ái.
-
Đi - đi - đi. Sẽ - đến -
sẽ - đến - sẽ - đến.
Người thanh niên chỉ ú ớ và đưa tay chỉ vào bàn chân, chỉ vào
tràng hạt vị sư đang mang ở cổ. Anh xòe
bàn tay và nhìn vào đó như tìm kiếm điều gì.
Vị sư lại nói:
-
Không đi, không dừng lại, không đến đâu.
Người thanh niên đưa một ngón tay chỉ vào khoảng không. Vị sư tiếp:
-
Đi đi đi đi. Sẽ đến sẽ đến sẽ đến sẽ đến. Không đi không dừng lại
không đến đâu.
Người thanh niên bỗng cười, giọng cười của một đứa trẻ thơ, vị
sư cũng cười, giọng cười hiền như tiếng róc rách chan hòa của suối.
Diệu không hiểu gì cả.
Người đàn ông thì chứng kiến cảnh này nhiều lần. Ông ta nói:
-
Họ là hai con người không phải con người bình thường. Họ đang bước lên trên con người.
-
Cháu chẳng hiểu gì cả. Diệu
nói.
-
Tôi cũng không hiểu gì hơn.
Người đàn ông nói.
Vị sư già quay về phía hai người khách:
-
Hai vị đang đi tìm…Tìm một con người hay tìm chính bản thân
mình. Nhưng không bao giờ gặp, phải
không? Tôi chẳng tìm ai. Tôi thấy tôi trong người này, và người này đã
thấy tôi trong anh ấy. Chiến tranh
ư? Thì cứ gọi đó là chiến tranh. Anh đã tự bắn vào người nhưng anh cũng đã tự
bắn vào anh. Viên đạn ghim vào tim người
nhưng tim anh chảy máu.
Ông đến vỗ vai người đàn ông:
-
Ông không tin vào những gì ngoài ông, thánh thần, Phật,
Chúa. Ông bảo ông chỉ tin vào ông. Nhưng ông thấy đó, ông đang tự đánh lừa
ông. Chiến tranh cũng là trò đánh lừa. Con người tạo ra chiến tranh để đánh lừa nhau
và tự đánh lừa mình.
Vị Sư già lại đến bên người thanh niên, lúc này đã ngồi xuống một
tảng đá dưới gốc cây đại, tay anh cầm một cánh hoa màu vàng phai, anh nhìn vào
cánh hoa và cười một mình, cười không thành tiếng, nụ cười của anh hiền lành vô
cùng dù khuôn mặt của anh dị dạng chẳng giống mặt người.
-
Đây, người này đây, vị sư già nói, là một vật hy sinh bị đẩy vào
trò chơi chiến tranh của con người, tôi tin chắc thế. Và bây giờ, anh ở đây, như một đứa trẻ con với
khung cảnh chung quanh. Chiến
tranh. Hòa bình? Làng mạc quê
hương? Cha mẹ anh em? Bạn bè người yêu? Tất cả đối với anh ta không hơn một mảng
sương mù, một mảng sương mù bay qua sớm chiều tan biến…
Diệu nhìn người thanh niên, một ý nghĩ chợt hiện ra trong đầu:
“Có phải là anh không?” Và trong đầu người
đàn ông: “Trời ơi! Có phải là con ta?”
Nhưng rồi không ai, cả hai người, dám tin đó là người thân yêu của
mình. Không thể như thế được. Sau trò chơi tàn khốc của chiến tranh, quá bất
công, quá dã man, nếu họ phải nhận lại một phần ruột thịt của mình dưới lớp
hình hài đó. Sau những mất mát bi
thương, sau những kiếm tìm vô vọng, họ được đền trả như thế sao?
Vị sư già như đọc được ý nghĩ thầm kín của hai người khách, ông
vừa ngồi xuống bên người thanh niên lúc này đang chìm sâu vào giấc ngủ, đầu tựa
vào gốc cây đại.
-
Không có gì ràng buộc hai vị tin rằng đây là con người hai vị đi
tìm trong bao năm nay. Không có một yếu
tố nào chắc chắn khẳng định điều này.
Đúng không?
Hai người “dạ dạ”, nhưng không dám nói gì. Vị sư tiếp:
-
Nhưng tôi tin rằng, hai nười có thừa lòng thương yêu để thương
yêu con người này. Phải không?
Ngưng một lát nhà sư tiếp:
-
Hai người cũng thừa biết rằng sau cuộc chiến tranh này sẽ tiếp
diễn một cuộc chiến khác, có khác nhau về hình thái và mục đích nhưng giống
nhau về hậu quả mà nó gây ra. Và những
con người như con người này, đã có, hiện còn và sẽ còn, ở đâu đó trên mặt đất
này, nơi một cánh rừng hoang, một đỉnh núi cao, một hang thẳm. Chắc chắn là còn như thế.
Diệu thật thà:
-
Thưa thầy, bây giờ hòa bình rồi, con có thấy chiến tranh nào
khác đâu.
Vị sư già cười, nụ cười hiền như một vị Bồ Tát.
-
Người ta có một khái niệm đơn giản về hòa bình và chiến tranh,
con ạ. Con cũng vậy. Người ta không còn lăm lăm họng súng vào
nhau, người ta không còn đêm đêm nã pháo về thành phố, người ta không còn đem
máy bay rải bom trên đất nước này. Và
người ta cho đó là hòa bình…Khi nào còn có con người trên lục địa này, khi đó
chiến tranh vẫn còn con ạ.
Người đàn ông im lặng rất lâu, giờ mới lên tiếng:
-
Thưa thầy, tôi không bao giờ tin rằng nhân loại sẽ có một ngày
hòa bình.
-
Người thanh niên chợt tỉnh giấc, đứng dậy, không nhìn ai, vừa mỉm
cười vừa bước đi. Anh lại tiếp tục đi
vòng quanh sân như đi trong cõi vô cùng.
Vị sư già vừa nhìn cười vừa nói:
-
Ôi. Như vậy là không bao giờ có hòa bình. Hòa bình chỉ là ảo tưởng. Đức Phật đản sanh, Đức Jésus giáng thế, hơn
hai ngàn năm rồi mà nhân loại đâu có hòa bình.
Diệu thưa:
-
Con thì con không nghĩ như thế.
Xa xôi quá. Con chỉ cần gặp anh ấy. Sống một cuộc đời bình dị, ở một nơi nào đó,
thật yên tĩnh. Chúng con yêu thương
nhau, không lo âu, không sợ sệt. Với con
như thế là đủ rồi, là hòa bình rồi.
-
Vâng. Vị sư già nói. Đúng như thế nếu tâm lý con người trên hành
tinh này đều mong ước như con.
Người đàn ông cười ha hả:
-
Than ôi, buồn là trong tâm lý con người đó may mắn lắm chỉ có
vài ba người mong ước đơn giản như cô thôi. Số còn lại sẽ vẫn cầm súng bắn vào
nhau dưới đủ mọi lý do, kể cả tự nguyện và bị bắt buộc.
Sư già chắp hai tay trước ngực, miệng lẩm bẩm đọc kinh, ngài bước
đi chậm rải hướng về phía chánh điện.
Người thanh niên cũng dừng lại, đến ngồi dưới gốc cây đại.
Diệu nhìn người đàn ông, nhìn người thanh niên, rồi nhìn xuống
ngực mình, nàng thấy xao xuyến và cay đắng.
“Sao anh không về dù hòa bình”.
Nàng nói như nói với chính mình.
Người đàn ông nhìn người đang ngồi xếp bằng dưới gốc cây đại bất
động như một pho tượng. Anh mở to đôi mắt
trong sáng lạ thường nhìn suốt vào khoảng trời xanh trên đầu. Người đàn ông bước
đến bên, khẽ đặt một tay lên vai anh.
Ông ngồi xuống, ông nhìn anh như chợt vừa bắt gặp, như chợt thấy ra, như
chợt tỉnh thức, ông tựa người vào anh và nhắm nghiền mắt lại.
Trong lòng Diệu bỗng nghe nôn nao một âm vang mời gọi, nàng thấy
trào dâng đến nức nở tiếng thôi thúc của yêu thương, của ân phước cao vời. Nàng bước đi những bước nhẹ như trong chiêm
bao, nàng ngồi quỳ gối bên người thanh niên, nắm tay anh như cầm nắm nguồn hạnh
phúc cứu rỗi, nhưng trên hai mắt nàng, đôi dòng lệ lóng lánh ánh mặt trời chảy
xuống mằn mặn trên môi đang cố mím chặt để khỏi bật ra tiếng khóc.
-
A Di Đà Phật.
Vị sư già quay nhìn họ, ánh nhìn tỏa xuống điệu đàng như còn sợ
cái pho tượng gồm ba con người tan chảy ra và bay đi như những đám mây ngũ sắc
đủ hình thù vẫn thường hiện ra và tan đi trong không gian xa lạ.
Lê
Nam Phương (Lê Văn Trung)
Quê
nhà 1979
Thư
Quán Bản Thảo Cái Bè nhà thơ Lê Văn Trung.